Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2024

Bước chuyển biến quân sự của Mỹ ở Biển Đông

 

Hệ thống Typhoon và những bước chuyển biến của chiến tranh Không biển đối phó Trung Quốc của Hoa Kỳ

Mới đây Mỹ đã đưa hệ thống typhoon đến Philippin tập trận , đây là động thái mới nhất của lục quân Mỹ ở khu vực nhằm cảnh cáo TQ và khẳng định quyền lực quân sự răn đe trong khu vực .
Ngày 19/4 chiếc C-17A Globemaster III của Sư đoàn 62 Không quân Mỹ đã chuyển một bệ phóng container lên xe moóc, được kéo bởi máy kéo của Lực lượng đặc nhiệm đa miền số 1 từ Lewis-McChord - Căn cứ (Bang Washington) . Nhưng trên thực tế có bao nhiêu chiếc đã được gửi đi và liệu việc bắn đạn thật có được thực hiện hay không thì vẫn chưa rõ. Chính xác các thành phần Typhoon hiện được đặt ở đâu ở Philippines cũng không rõ ràng.
Quân đội Mỹ đã nhận được hệ thống tên lửa Typhoon đầu tiên do Lockheed Martin phát triển theo chương trình Năng lực tầm trung (MRC) từ năm 2022 , chỉ 2 năm đặt hàng đã có 4 nguyên mẫu cảu nó , đây cho là thần tốc khi phát triển 1 loại vũ khí mới của Mỹ , từ lúc đưa ra khái niệm đến tạo ra nguyên mẫu đưa vào đánh giá thực tế chỉ có 2 năm .Chưa có vũ khí nào của Mỹ đạt được thời gian nghiên cứu và vận hành nhanh như vậy .






Typhoon là hệ thống phóng từ mặt đất có thể sử dụng tên lửa siêu thanh SM-6 và tên lửa cận âm Tomahawk với tầm phóng lên tới 1.800 km. Đồng thời, cần lưu ý rằng tên lửa của công ty Raytheon sẽ không có những thay đổi đáng kể. Tính mới này được thiết kế trên cơ sở hệ thống phóng thẳng đứng Mk 41 được Hải quân Mỹ sử dụng. Điều lạ là nó dùng cả vũ khí của Hải Quân và Vũ khí của Lục Quân trong cùng 1 hệ thống , và hệ thống này nằm dưới sự điều hành của Lục quân Hoa Kỳ , trong Quân Đội Mỹ thì Lục Quân và Hải Quân luôn có sự kèn cựa nhau rất mạnh để đòi hỏi các nguồn vốn của mình .
Quân đội Mỹ muốn có 4 hệ thống vũ khí được phát triển theo chương trình MRC. Typhoon sẽ chiếm một không gian trống giữa tên lửa ATACMS/PrSM có tầm phóng 300/500 km và vũ khí siêu thanh của Khong quân . Lục quân có kế hoạch mua tên lửa SM-6 và Tomahawk theo hợp đồng với Hải quân. Lockheed Martin đã cung cấp cho Quân đội Mỹ thiết bị phóng mặt đất. Một khẩu đội bao gồm bốn bệ phóng, mỗi bệ phóng có thể phóng bốn tên lửa. Có thể trong tương lai Typhoon sẽ sử dụng tên lửa siêu thanh SM-6 Block IB hiện đang được phát triển.
Việc gửi dù chỉ một bệ phóng Typhon tới Philippines để tham gia diễn tập cũng là một minh chứng đáng kể về khả năng triển khai các hệ thống phòng thủ - tấn công cấp chiến lược của của Quân đội Mỹ ( mặc dù hệ thống này tầm băn rất xa nhưng Mỹ vẫn khẳng định nó không phải là hệ thống thuộc tầm chiến lược ) . Hệ thống vũ khí này đặt ra thách thức mới cho các lực lượng Trung Quốc, đặc biệt là xét đến tính linh hoạt mà Typhoon có thể mang lại để tấn công các mục tiêu trên toàn khu vực trong giai đoạn đầu của một cuộc xung đột.
Typhoon có tầm hoạt động đủ rộng để vươn từ Luzon đến đông nam lục địa TQ, cũng như đảo Hải Nam với các căn cứ hải quân quan trọng và các căn cứ khác. Các tiền đồn nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông cũng sẽ nằm trong tầm bắn hiệu quả của nó . Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong bối cảnh căng thẳng hiện nay giữa TQ và Philippin về quyền kiểm soát Bãi cạn Scarborough, nằm ở phía tây Luzon.








Người phát ngôn của lục quân Mỹ nói rằng : Bằng cách nâng cao khả năng sẵn sàng chung của chúng tôi với Lực lượng vũ trang Philippines, Salaknib 24 cải thiện khả năng hoạt động của chúng tôi và củng cố liên minh Mỹ-Philippines lâu dài và bền chặt, thể hiện cam kết của chúng tôi đối với một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Mỹ chuyển hệ thống này đến Philippin là tín hiệu rất mạnh của Mỹ trong bối cảnh chỉ 3-5 năm nữa các Máy bay chiến lược tàng hình thế hệ 5 B-21 raider đi vào hoạt động với tầm bay 7.000 KM được trang bị tên lửa tấn công không đốt đất tầm xa AGM- 158 D JASSM-XR , với người hay quan tâm đến kỹ thuật quân sự thì tên lửa tầm xa tấn công mặt đất này là 1 vũ khí AI của Mỹ , nó như 1 con robot thông minh trong hình dạng của 1 tên lửa , vô cùng hiện đại , tính năng tàng hình và khả năng tự hoạt thông minh của nó là vô đối trong các dòng tên lửa hiện đại trên thế giới . Với tầm bắn đến 1.800km kết hợp với 7 .000 km của B-21 raider , phạm vi của cặp đôi này sẽ là 9 ngàn Km , nếu B-21 raider đặt ở đảo GUAM , phạm vi tấn công của nó sẽ bao trùm toàn bộ lãnh thổ TQ , Mông cổ và 1 phần phía bắc của Nga .
Tên lửa tiên tiến này được sử dụng đa nền tảng từ không không đến không quân Hải Quân và Lục Quân Mỹ , nó là trang bị tiêu chuẩn cho B-1B Lancer, B-2 Spirit, B-52H Stratofortress, F-15E Strike Eagle, F-16C/D, F/A-18C/D, và có thể sau này là F-35 Joint Strike. B-1B và F-15E cũng có thể trang bị JASSM-ER nâng cấp có tâm bắn đến 1.800km
B-1B được coi là nền tảng xuất phát, có khả năng mang tới 24 tên lửa. B-2 có thể mang tới 16 tên lửa và B-52H có thể mang 12 tên lửa bên trong trên các bệ phóng quay. Máy bay chiến đấu có thể mang một tên lửa dưới mỗi cánh, mặc dù vào tháng 5 năm 2021, Không quân Mỹ đã trang bị cho một chiếc F-15E 5 tên lửa JASSM. F-35, nếu muốn đeo tên lửa này , sẽ phải mang vũ khí bên ngoài vì tên lửa không vừa với khoang vũ khí chính bên trong.
Cái em muốn nói ở đây là Quân đội đã hợp nhất cho việc tích hợp cho các máy bay ném bom chiến lược của mình trở thành 1 thành phần quan trọng trong chính sách tấn công nhanh toàn cầu của Mỹ , Mỹ đã cho các máy bay như B-1B và B-52 tập tác chiến ở chiến trường trên biển Thái Bình Dương , 1 loại máy bay ném bom trên lục địa giờ đã được chuyển đổi để đảm đương vai trò tấn công trên biển , quả là ảo diệu .
Vậy học thuyết tấn công trên biển của Mỹ thế nào trong thời kỳ mới khi có sự góp mặt của không quân chiến lược ?
Đối với khi vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương , Mỹ sử dụng học thuyết chiến tranh Không- Biển ( học thuyết này em đã viết trong bài “ quân đội TQ lớn mạnh từng ngày ” )
Mỹ với ưu thế về kỹ thuật quân sự của Hải Quân , được hỗ trợ bởi các lực lương không quân Trên Hạm và Không Quân tầm xa đã định hình hoàn chỉnh học thuyết chiến tranh mặt nước từ lâu , Được gọi dưới điều lệnh là : tác chiến chống mục tiêu bề mặt , hoặc nói kiểu việt hóa là : tác chiến chống mặt nước ( anti-surface warfare)
Tác chiến chống mặt nước là một nhánh của tác chiến hải quân liên quan đến việc trấn áp các tàu chiến mặt nước. Tổng quát hơn, đó là bất kỳ loại vũ khí, khí tài hoặc hoạt động nào nhằm tấn công hoặc hạn chế tính hiệu quả của tàu mặt nước của đối phương. Trước khi sử dụng tàu ngầm và không quân hải quân, tất cả các cuộc chiến tranh hải quân đều bao gồm tác chiến chống tàu mặt nước. Khái niệm khác biệt về khả năng tác chiến chống mặt nước xuất hiện sau Thế chiến II .
Thể loại tác chiến chống mặt nước
Tác chiến chống mặt nước có thể được chia thành bốn loại dựa trên nền tảng mà vũ khí được phóng:
– Không quân: Tác chiến chống mặt nước được thực hiện bằng máy bay. Trong lịch sử, việc này được thực hiện chủ yếu thông qua ném bom ngang hoặc ném bom bổ nhào, chạy ngang hoặc phóng ngư lôi từ trên không. Ngày nay, kiểu tác chiến trên không thường được thực hiện bằng các cuộc tấn công tầm xa bằng cách sử dụng loạt tên lửa hành trình phóng từ trên không bằng các tên lửa không đối đất sử đổi của không quân hải quân và tên lửa chống hạm .
– Bề mặt: Tác chiến chống mặt nước được tiến hành bởi tàu chiến. Những tàu này có thể sử dụng ngư lôi, súng, tên lửa đất đối đất hoặc mìn , ngư lôi . Máy bay không người lái đại diện cho một công nghệ mới nổi và nguy hiểm bởi độ thực dụng rất cao . Các phương pháp bất đối xứng bao gồm tàu thuyền , cano tự sát.
– Tàu ngầm: Tác chiến chống mặt nước được tiến hành bởi tàu ngầm. Trong lịch sử, việc này được thực hiện bằng cách sử dụng ngư lôi và súng pháo trên boong. Gần đây hơn, tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm SLCM đã trở thành vũ khí chống hạm được coi là tiêu chuẩn cho tác chiến tầu ngầm , có tầm bắn xa hơn và độ an toàn nâng cao đáng kể .
– Bờ biển/không gian: Trong lịch sử, điều này đề cập đến việc bắn phá bờ biển từ pháo binh ven biển, bao gồm cả đại bác. Hiện tại tên lửa hành trình hoặc tên lửa đạn đạo đặt trên bờ phổ biến hơn bởi tính cơ động và tầm xa , khó phát hiện của nó . Hơn nữa, các vệ tinh điều khiển trên mặt đất có thể cung cấp dữ liệu về chuyển động của hạm đội tâu địch đã mở ra 1 kiểu tác chiến đối hải linh hoạt và cần đề cao các vấn đề ngụy trang và đề cao tính cơ động của các hệ thống phòng thủ bờ biển .
Tấn công từ trên không bằng các lực lượng không quân hải quân và không quân chiến lược tầm xa
Sau khi phát triển các tên lửa dẫn đường, tầm xa, đáng tin cậy, quy trình tấn công áp chế tầu mặt nước sẽ bao gồm một cuộc tấn công hàng loạt bằng máy bay phản lực tốc độ cao phóng đủ số lượng tên lửa để áp đảo lực lượng phòng không của hạm đội. đòn đánh này rất uy lực khi kết hợp với các máy bay tuần thám biển như loại P-8A , FA -18 và được hỗ trợ dẫn đường của những máy bay cảnh báo tầm xa trên hạm như E-3 . Mỹ dự tính để đánh thiệt hại nặng 1 biên đội tầu gòm 8 chiếc của TQ thì các lực lượng không quân hải quân Mỹ sẽ cần đến 8 -12 chiếc F-18 3 chiếc P-8A 1 đến 2 chiếc B-1B , Bảo đảm cho việc tiêu diệt ít nhất 5 chiếc tầu chiến cỡ tuần dương hạm và đánh bị thương hoàn toàn hạm đội của TQ bao gồm cả tầu sân bay .
Máy bay hải quân có thể tấn công với số lượng lớn mà vẫn mang tính bất ngờ cao , có thể mang theo nhiều loại vũ khí, mỗi loại có khả năng vô hiệu hóa một con tàu. Trong khi các tàu chiến có thể mang theo các công nghệ phòng thủ mạnh mẽ thì nhu cầu tiêu diệt mọi tên lửa bay tới khiến chúng gặp bất lợi. Tên lửa và máy bay siêu thanh là những mục tiêu mà tầu chiến rất khó đánh chặn và ngay cả những hệ thống tiên tiến nhất cũng không thể đảm bảo khả năng đánh chặn chắc chắn.
Sự vượt trội về kỹ thuật trên cơ sở kết nối mạng và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật của Mỹ đã mang đến lợi thế vô song trong việc tích hợp các hệ thống cảnh báo trên mọi hạm tầu của họ , su hướng phòng thủ cấp hạm đội được nối mạng sử dụng nhiều radar và nhiều bệ phóng cùng nhau để đánh chặn – tấn công theo kiểu đám mây tên lửa cho phép sử dụng tốt hơn các nguồn lực phòng thủ và tấn công . Trước đây, mỗi tàu sẽ phải hành động riêng lẻ để chống lại một cuộc tấn công phối hợp dẫn đến lãng phí hỏa lực phòng thủ vào cùng một mục tiêu. Mạng cũng mang lại thông tin từ radar trên không, cho tầm hoạt động xa hơn rất nhiều so với bất kỳ radar nào trên tàu có thể đạt được do đường chân trời của radar. Điều này đối với Nga thì ngược lại hoàn toàn , các tầu chiến của Nga rất lớn trong chiến tranh lạnh , đề cao tác chiến độc lập , được thiết kế như 1 kho vũ khí lang thang trên biển , 1 mình độc lập tác chiến với cả 1 biên đội tầu của Mỹ hay NATO.
Nhìn sang TQ họ đã có bước tiến lớn về phòng không hạm đội và tiến bộ lớn trong việc tích hợp các hệ thống chỉ huy , kiểm soát trên cơ sở biên đội tầu chiến mặt nước và tầu ngầm , được điều phối bởi các tầu chỉ huy ( soái hạm ) cùng sự hỗ trợ của không quân hải quân , nhưng những nỗ lực này của TQ vẫn không đủ nếu so sánh với Hải quân và không quân hải quân mỹ đặc biệt là Mỹ đã có những vũ khí phòng không có tầm bắn rất xa đặt trên các đảo của đồng minh trong khu vực .
Sự bá đạo của Mỹ trong tác chiến ở các hải dương xa sôi là sự vượt trội hoàn toàn của tình báo vệ tinh , đối với tác chiến biển Mỹ có Vệ tinh của hệ thống đo trắc địa Geosat , Vệ tinh Geosat có khả năng xác định khoảng cách từ vệ tinh đến bề mặt đại dương với độ chính xác đến 10cm. Điều này bảo đảm nâng cao độ chính xác bắn tên lửa đạn đạo tầm trung lên 10% với chu kỳ kiểm soát bề mặt Đại Dương Thế Giới 6 tháng 1 lần . Đối phó với các loại tên lửa đạn đạo chống tàu của TQ , Mỹ có Vệ tinh phát hiện phóng tên lửa đạn đạo và nổ hạt nhân Ymeyu-2 , Mỹ có 7 vệ tinh Ymeyu-2 đặt trên qũy đạo địa tĩnh tại Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương…và khu vực châu Âu. Vệ tinh này cho phép có khu vực quan sát toàn cầu theo chiều rộng từ 83 độ bắc đến 83 độ nam. Bảo đảm liên tục quan sát các khu vực bờ biển TQ ở thời gian thực 24/7 , mọi di biến động ở khu vực bờ đông TQ đều không thoát khỏi tầm trinh sát của vệ tinh này .
Điều này nói đến vấn đề gì ? Thách thức đối với một tàu sân bay TQ là sử dụng hiệu quả lực lượng không quân của nó để chống lại các máy bay ném bom đang lao tớ của Mỹ . Máy bay chiến đấu có thể gây thương vong lớn cho lực lượng máy bay ném bom, nhưng tầm bay tương đối thấp và thời gian bay của chúng khiến chúng không thể duy trì một cuộc tuần tra chiến đấu liên tục trên hàng trăm dặm đại dương. Tầm bắn của tên lửa chống hạm của Mỹ cũng thường khiến máy bay ném bom nằm ngoài tầm bắn của máy bay chiến đấu khi phát hiện một cuộc đột kích, sẽ dễ dàng vô hiệu hóa một phần chính hệ thống phòng không của hạm đội TQ . Khả năng mang thông tin tình báo thời gian thực từ radar tầm xa và hình ảnh vệ tinh đến hạm đội của Mỹ cho phép máy bay chiến đấu được sử dụng để chống lại 1 cuộc đánh chặn tầm xa của TQ , và hơn thế nữa , TQ không có máy bay tiếp dầu tin cậy , khiến bán kính của không quân hải quân dùng SU-30 MKI hay J-15 trên hạm của TQ không thể bay quá xa để đánh chặn máy bay ném bon chiến lược của Mỹ .
Đối với tấn công bề mặt biển , tấn công hạm tầu bằng tầu chiến .
Hầu hết các tàu hải quân ngày nay đều được trang bị tên lửa chống hạm tầm xa như Harpoon và Exocet , Mỹ còn đi xa hơn nữa với sự nâng cấp của tên lửa Tomahaw blok 4/5 tầm bắn hơn 1000km và có khả năng tấn công tầu chiến di động cùng với tên lửa siêu âm SM3- block 2A sửa đổi , Một tiến bộ gần đây về vũ khí đất đối đất là việc sửa đổi tên lửa phòng không RIM-66 Standard để tấn công các mục tiêu trên mặt nước. Mặc dù không mạnh bằng tên lửa chống hạm chuyên dụng nhưng chúng cực kỳ nhanh và linh hoạt và có khả năng xuyên thủng hệ thống phòng thủ chống tên lửa tốt hơn. Ngoài ra, vì thường có nhiều tên lửa đất đối không được mang trên mọi tàu chiến nên hỏa lực tiềm tàng của tàu sẽ tăng lên gấp nhiều lần. Trong khi một tàu khu trục lớp Arleigh Burke thường mang theo 8 quả Harpoon sẵn sàng khai hỏa, nó lại mang theo 40 tên lửa Standard trở lên trong các bệ phóng thẳng đứng. Điều này cũng cho thấy một con tàu được trang bị tên lửa phòng không Standard có khả năng tấn công mục tiêu tầm xa mà không nhất thiết phải cố gắng đánh chìm nó, một điều rất có giá trị đối với các mục tiêu phi quân sự nó cũng thừa khả năng làm tê liệt hoặc tiêu diệt tàu địch chỉ bằng một đòn đánh. Các tàu nhỏ hơn như tàu chiến ven biển của Hải quân Mỹ sử dụng tên lửa nhỏ hơn, chẳng hạn như AGM-114 Hellfire, trong vai trò đất đối đất, ít phù hợp hơn để tấn công tàu chiến nhưng vẫn là quá hoàn hảo chống lại các tàu tấn công nhanh lớp type 0-22 hoặc các xuồng tự sát cũng như các mục tiêu trên đất liền dọc bờ biển .
Tàu mặt nước có một số nhược điểm chính khi làm nền tảng tên lửa tàu đối hạm so với các tàu chiến khác. Ở gần bề mặt biển nó làm giảm đáng kể phạm vi radar do đường chân trời của radar, khiến việc tìm mục tiêu khó khăn hơn và giảm phạm vi tối đa mà tên lửa có thể phóng tới một cách hữu ích. Ngoài ra, việc phóng từ độ cao thấp tốn nhiều nhiên liệu hơn so với phóng từ trên không, càng làm giảm tầm bắn tiềm năng của tên lửa. Tuy nhiên, tàu có thể mang nhiều tên lửa hơn bất kỳ nền tảng nào khác và do đó có thể tấn công nhiều mục tiêu hơn hoặc tiếp tục giao tranh lâu hơn các nền tảng khác. Mỹ có cả 2 yếu tố này là hạm tầu lớn và không quân hải quân hùng mạnh , điều này triệt tiêu đi các nhược điểm cố hữu của tầu chiến .
1 vấn đề của Hải quân Mỹ mà hải quân TQ không so sánh được là khả năng khống chế mền , nôm na là tác chiến điện tử .
Trận hải chiến Latakia trong Chiến tranh Yom Kippur đã chứng kiến ​​các tàu tên lửa của Israel đánh chìm số lượng lên đến 3 chiếc tàu thuyền Syria bằng cách sử dụng các biện pháp phản công điện tử và gây nhiễu để đánh bại hỏa lực tên lửa từ tầu chiến Syria , nhưng tên lửa hiện đại thường có hệ thống dẫn đường bổ sung khiến các hệ thống phòng thủ như vậy kém hiệu quả hơn nhiều. Trong một cuộc xung đột hiện đại ngày nay , tên lửa chống hạm có nhiều khả năng sẽ được sử dụng để chống lại tàu buôn hoặc tàu phụ trợ và chỉ chống lại các tàu được trang bị vũ khí tương tự khi không có vũ khí nào khác. Sự xuất hiện của các hệ thống vũ khí được nối mạng có khả năng cung cấp phương pháp phóng tên lửa đất đối đất, sử dụng dữ liệu radar từ máy bay hoặc UAV để nhắm mục tiêu tên lửa ở đường chân trời và tấn công các tàu mà không để bị trả đũa đã được hải quân Mỹ hoàn thiện từ chiến tranh với Iran năm 1988 , rất sớm và rất lâu rồi . Hiện tại năng lực chiến tranh điện tử của Mỹ vẫn số 1 thế giới là không cần phải bàn cãi .
Hải quân Mỹ rất chú trong đến hệ thống pháo hải quân , nó mang lại những lợi ích không thể thay thế được , về độ chính xác của pháo hải quân thì TQ không thể theo kịp , Pháo hải quân chỉ được Mỹ cải tiến thêm chứ không hề bỏ đi vì các loại vũ khí như pháo Mark 45 127 mm vẫn được sử dụng để hỗ trợ pháo binh chống lại các mục tiêu trên bộ nhưng cũng có chức năng chống lại tàu mặt nước. Tên lửa thường là vũ khí tốt hơn xét về khả năng hủy diệt nhưng đạn pháo khó hơn nhiều (nếu không nói là không thể) bị hệ thống phòng thủ chống tên lửa đánh chặn và nó vô hình trên radar của tầu chiến , mang lại lợi thế tiềm tàng cho các lớp tầu chiến tấn công nhanh tàng hình của Mỹ . pháo hạm tầu không yêu cầu khóa radar để khai hỏa, giúp chúng hiệu quả hơn khi chống lại các tàu tàng hình hoặc những tàu quá nhỏ khó bị phát hiện.
Sự hiện đại hóa của Hải quân TQ là rất đáng chú ý , nhưng xét trên 1 nền tảng rộng lớn về học thuyết chiến tranh và sự hỗ trợ của các thành phần cứng của Hải quân vẫn là không đủ để có thể cạnh tranh với Hải Quân Mỹ . Sự đầu tư của hải quân và không quân Mỹ là sâu rộng , bài bản dựa vào những ưu thế vượt trội về công nghệ , Mỹ hầu như có mọi loại thiết bị chiến tranh được đổi mới , nâng cấp và chuyển đổi công năng tùy thuộc vào học thuyết chiến tranh mới , chiến tranh trên biển và không chiến là lợi thế lớn nhất của Mỹ so với lục quân , chiến trường Thái Bình Dương là sân nhà quen thuộc của Mỹ . Bằng kinh nghiệm 100 năm hải chiến được bổ sung bằng những lợi thế công nghệ đã giúp Hải Quân Mỹ có được những tính toán cân bằng giữa không quân tầm xa và hải quân nhằm tới 1 mục tiêu chung , những khái niệm chiến tranh mới được liên tục thay đổi và đề xuất thêm từ những bộ óc quân sự thiên tài , với sự xuất hiện của hệ thống Typoon sẽ buộc TQ phải lùi sâu lực lượng không quân hải quân và tầu chiến vào bờ biển của họ , làm đảo lội chiến lược hải quân chống can thiệt – chống tiếp cận A2-AD của TQ , quả thật , Mỹ chỉ cần 1 loại vũ khí thôi đã khiến TQ phải xem xét lại chiến lược hải quân của mình , bắt TQ phải đổ tiền vào nhiều hơn vào những phương cách đánh bại chỉ 1 hệ thống của Mỹ , nếu Mỹ triển khi ở Đài Loan , Philippin , Nhật Bản , Hàn Quốc các hệ thống như Typoon thì TQ không biết phải đổ bao nhiêu tiền và phương tiện , nhân lực vật lực để truy tìm và tìm cách vô hiệu hóa nó . Mỹ chỉ có 1 điểm yếu ở Thái Bình Dương là chổ đứng , chứ không phải là nguồn lực chiến tranh , Mỹ nên kiểm soát chặt và tạo quan hệ thân thiết hơn nữa bằng những hiệp định bằng văn bản với các quốc đảo ở Thái Bình Dương , từ đó Mỹ mới tạo ra được vòng vây địa chiến lược bằng chính sách vây hãm TQ ở vòng cung địa lý 3 chuỗi đảo . TQ rất mạnh , có tiền và co tham vọng , nhưng Mỹ có nhiều đồng minh và năng lực chiến tranh công nghệ lại vượt trội hơn , ván cờ quân sự ở Thái Bình Dương quả thật rất hay và rất đáng xem trong thế Kỷ này, chúng ta thật may mắn hoặc thật bất hạnh khi chứng kiến sự thay đổi về quyền lực ở Châu Á , đặc biệt ở Biển Đông , ván cờ này Mỹ vẫn có thể chiến thắng nếu họ khôn ngoan với các đồng minh của mình ở khu vực . Chiến tranh Mỹ - TQ chắc chắn là không thể tránh khỏi , chỉ là khi nào và ai dành chiến thắng mà thôi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Israel không được phép nương tay.

  Tôi không có thói quen quy chụp tôn giáo này tàn ác, dân tộc kia ngu muội. Ta được học tư duy biện chứng, được dạy biến đổi về lượng-chất....