Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2023

Nước mỹ với sự thất bại của nga ở Ucraina

 KHÔNG CÓ 1 THẾ LỰC NƯỚC NGOÀI NÀO ĐỦ SỨC MẠNH LÀM SUY YẾU NHỮNG QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA MỸ,  MÀ CHÍNH BẢN THÂN TRONG NỘI TẠI SIÊU CƯỜNG MỚI LÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ SUY YẾU. 

CHIẾN THẮNG Ở UCRAINA SẼ DẪN NƯỚC MỸ ĐẾN SỰ KIÊU NGẠO.  





Trong bài phát biểu nhằm thuyết phục dân chúng thành Athen tuyên chiến với Sparta vào năm 431 TCN, Pericles tuyên bố rằng ông “sợ những sai lầm của chính chúng ta hơn là những trang bị của kẻ thù.” Đặc biệt, ông cảnh báo chống lại sự kiêu ngạo và nguy cơ kết hợp “các kế hoạch chinh phục mới với việc tiến hành chiến tranh.” 

Nhiều thế kỷ sau, Edmund Burke đưa ra lời cảnh báo tương tự cho những người đồng hương Anh Quốc khi đất nước của ông đang trên đường tiến tới chiến tranh với nước Pháp cách mạng. Ông viết vào năm 1793: “Tôi sợ hãi sức mạnh của chúng ta, và tham vọng của chúng ta; tôi sợ hãi với việc người khác phải sợ hãi chúng ta quá nhiều.… Chúng ta có thể nói rằng mình sẽ không lạm dụng thứ quyền lực đáng kinh ngạc và cho đến nay chưa được nghe đến này. Nhưng mọi quốc gia khác sẽ nghĩ rằng chúng ta sẽ lạm dụng nó. Không sớm thì muộn, tình trạng này sẽ tạo ra một kết hợp chống lại chúng ta và có thể kết thúc bằng sự hủy hoại của chúng ta.” Tuy nhiên, dự báo của Burke đã không trở thành hiện thực, một phần vì tham vọng của người Anh vẫn hạn chế ngay cả sau khi Pháp bị đánh bại.

Tôi đề cập đến hai lời tiên tri u ám này, bởi vì có khả năng Mỹ và các đồng minh phương Tây của họ sẽ bước ra khỏi cuộc chiến ở Ukraine với một chiến thắng rõ ràng. Một chiến lược với tầm nhìn xa hơn của phương Tây có lẽ đã ngăn chặn được cuộc chiến ngay từ đầu, giúp Ukraine không phải chịu sự tàn phá nặng nề dưới bàn tay của Nga. Tuy nhiên, một kết hợp giữa những tính toán sai lầm và khả năng quân sự kém của Nga, sự kháng cự quyết liệt của Ukraine, sự hỗ trợ vật chất và tình báo mạnh mẽ của phương Tây, cũng như các biện pháp trừng phạt nặng tay lên NGA cuối cùng sẽ có thể tạo ra một chiến thắng cho Kyiv và những người ủng hộ ở phương Tây. Giả sử giao tranh sẽ không leo thang hơn nữa ,một khả năng đến nay vẫn không thể bị loại trừ và Ukraine có thể duy trì những thành công gần đây trên chiến trường, thì sức mạnh của Nga sẽ bị suy giảm đáng kể trong nhiều năm tới. Thậm chí, có khả năng Putin sẽ bị lật đổ ở Moscow. Nếu Nga phải hứng chịu một thất bại quyết định, thì lời cảnh báo về sự suy tàn không thể tránh khỏi của phương Tây sẽ trở thành một kết luận vội vàng ẢO TƯỞNG. 

Kết quả này là điều rất được mong đợi, cả về mặt đạo đức lẫn chiến lược, giả định rằng vũ khí hạt nhân không được sử dụng và Ukraine nhận lại gần như tất cả, nếu không muốn nói là toàn bộ, lãnh thổ đã mất. Cá nhân tôi chắc chắn mong đợi kịch bản này. Nhưng sau đó thì sao? Phương Tây, và đặc biệt là Mỹ, nên tận dụng chiến thắng như thế nào? Quan trọng hơn, cần tránh làm gì để không lãng phí thành quả chiến thắng?

Lần cuối cùng mà người Mỹ giành được một chiến thắng địa chiến lược vĩ đại – sự sụp đổ trong hòa bình của đế chế Liên Xô – họ đã mắc vào cái bẫy ngạo mạn mà Pericles từng cảnh báo, và đã lãng phí cơ hội xây dựng một thế giới hòa bình và bền vững hơn. Nếu nhận được cơ hội thứ hai, họ nên học hỏi từ những sai lầm của mình và làm tốt hơn.

Chiến thắng ở Ukraine sẽ củng cố những tuyên bố về tính ưu việt vốn có của nền dân chủ và khuyến khích những nỗ lực mới để truyền bá nó ra nước ngoài. Những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ và những nhà thập tự chinh theo chủ nghĩa tự do sẽ tha hồ lên tiếng. 

 

Nhưng , điều đó có gì sai? NHỮNG BÀI HỌC DẪN ĐẾN CHIẾN TRANH. 


Đầu tiên, nó đã bỏ qua một số bài học quan trọng từ cuộc chiến Ukraine. Bài học đầu tiên là việc đe dọa thứ mà một cường quốc tin là lợi ích sống còn là hết sức nguy hiểm, ngay cả khi ý định của hành động đó là cao cả hay nhân từ.

Kể từ tháng 02/2014, khi cuộc khủng hoảng Ukraine bắt đầu, đã làm mất giá trị cảnh báo này. Giành được chiến thắng trong một cuộc chiến mà lẽ ra có thể tránh được không phải là lý do chính đáng để Phương tây lặp lại sai lầm tương tự một lần nữa. Tôi không hề ủng hộ chính sách xoa dịu Nga, nhưng đơn thuần muốn nhắc nhở rằng sẽ rất rủi ro nếu phớt lờ những gì mà các cường quốc khác coi là lợi ích sống còn ( điều này sẽ rất nguy hiểm khi đối đầu với lợi ích sống còn của Trung Quốc và mỹ là lợi ích CỐT LÕI ) 


Bài học thứ hai là sự nguy hiểm của việc thổi phồng các mối đe dọa. Cuộc chiến ở Ukraine nên được hiểu là cuộc chiến phòng ngừa do Nga phát động nhằm ngăn Ukraine đi vào quỹ đạo của phương Tây. Theo luật pháp quốc tế, chiến tranh phòng ngừa là bất hợp pháp, nhưng Putin tin rằng một nỗ lực do Mỹ dẫn đầu nhằm trang bị và đào tạo cho Ukraine cuối cùng sẽ khiến Nga không thể ngăn chặn Kyiv tái điều chỉnh về địa chính trị. Tương tự như khi các nhà lãnh đạo Mỹ phóng đại nguy cơ sụp đổ các con bài domino trong Chiến tranh Việt Nam và cố tình thổi phồng mối đe dọa từ Iraq của Saddam Hussein vào năm 2003, Putin có lẽ đã nói quá về những thiệt hại của Nga nếu họ mất đi Ukraine. Các nhà lãnh đạo Nga nhiều lần mô tả kết cục này là một mối đe dọa sống còn – tức là một mối đe dọa đáng để chiến đấu nhằm ngăn chặn  nhưng nỗi sợ hãi của họ rằng NATO có thể xâm lược, hoặc làn sóng cách mạng màu cuối cùng có thể lan sang Nga, có lẽ đã bị phóng đại , Nếu đúng như vậy, thì đánh giá sai lầm này đã đẩy Nga vào một vũng lầy đắt giá. Quan điểm của tôi là việc thổi phồng các mối đe dọa có thể khiến các quốc gia gặp rắc rối nhiều như khi họ đánh giá thấp các mối đe dọa. Đó là lý do tại sao Otto von Bismarck của Đức đã cảnh báo rằng chiến tranh phòng ngừa giống như “tự sát vì sợ chết.” 

Bài học thứ ba (mà Putin dường như đã bỏ qua) rất đơn giản: Nếu anh xâm lược nước ngoài, đừng mong đợi một sự chào đón thân thiện. Ngược lại, những kẻ xâm lược nước ngoài lại giúp đoàn kết một xã hội mà trước đó còn bị chia rẽ, đồng thời truyền cảm hứng cho sự phản kháng quyết liệt và hiệu quả. Ukraine là một trường hợp điển hình, và cuộc chiến cũng nhắc nhở chúng ta rằng, anh thậm chí sẽ ít được chào đón hơn nếu lực lượng vũ trang của anh phạm tội ác chiến tranh hoặc các hành động tàn bạo khác. Chúng ta cần đưa bài học này vào vị trí trung tâm. Đây là bài học về tính chất cuộc chiến.  Nó định hình nên cội nguồn của lý luận chính trị mang tính nhân văn,  thượng tôn Pháp luật và tính chính nghĩa trong các hành động tập thể. 


Bài học thứ tư (mà Putin có lẽ cũng không để ý đến) là thái độ hung hăng sẽ đặt các nước khác vào tình trạng báo động và buộc họ phải hành động để chống lại nó. Nếu  Nga tin rằng phản ứng tương đối nhẹ nhàng đối với việc sáp nhập Crimea vào năm 2014 có nghĩa là các cường quốc bên ngoài sẽ không làm gì để chống lại cuộc xâm lược của lão ta vào năm 2022, thì ông đã mắc phải sai lầm tương tự như  Hitler khi chiếm đóng Tiệp Khắc vào tháng 03/1939, và nhắm đến Ba Lan vài tháng sau đó. Giữ cân bằng trong quan hệ đối ngoại đôi khi sẽ không hiệu quả và các quốc gia thường cố gắng đẩy trách nhiệm về phía người khác, nhưng khi đối mặt với một cuộc xâm lược trực tiếp, hành động cân bằng hiệu quả càng khó hơn. Người Mỹ hiểu rõ điều này, vì chủ nghĩa phiêu lưu của Mỹ trong kỷ nguyên đơn cực đã kích động cân bằng mềm ở một số quốc gia và cân bằng cứng ở các quốc gia khác, và những động lực đó đã cản trở một số tham vọng cao hơn của Mỹ . Chúng ta cũng nên nhớ bài học này. ( nguồn cơn của các đại cường mới nổi như Trung Quốc cần phải hiểu rằng,  1 sự đã rồi là không được chấp nhận trong 1 thế giới phẳng như thời điểm này)  


Tổng hợp lại, bốn bài học trên đây cho thấy rằng một chiến thắng ở Ukraine sẽ không đặt Mỹ vào vị trí có thể định hình lại trật tự toàn cầu theo ý muốn của mình. Mục tiêu đó đã vượt quá khả năng của nước này ở thời điểm đơn cực, và tình hình tổng thể hiện nay còn kém thuận lợi hơn, do sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự yếu kém về kinh tế của châu Âu, và thái độ mâu thuẫn của nhiều nước đang phát triển đối với Mỹ. Thay vào đó, thành công ở Ukraine nên khuyến khích người Mỹ cẩn trọng xem xét lại đại chiến lược trong 50 năm qua, để xác định những cách tiếp cận nào đã hoạt động hiệu quả và cách nào chưa hiệu quả


NƯỚC MỸ PHẢI LÀM GÌ VỚI SỰ HÙNG MẠNH CỦA MÌNH? 


Sức mạnh quân sự của Mỹ đã phát huy hiệu quả khi nó được sử dụng để tạo ra các thế trận răn đe mạnh mẽ, chống lại các đối thủ cường quốc đích thực – như đã làm ở châu Âu và Đông Bắc Á trong Chiến tranh Lạnh – trong khi tránh các nỗ lực công khai nhằm phục hồi chế độ cũ, hoặc lật đổ chế độ hiện tại. Những nỗ lực này đã thành công khi có các đối tác mạnh, có năng lực, và có tính chính danh; chúng hoạt động kém hiệu quả hơn khi đối tác là kẻ không được lòng dân, yếu, hoặc không đủ năng lực. Sức mạnh quân sự của Mỹ là một công cụ hữu hiệu khi nước này dùng nó để chống lại các hành động xâm lược vô cớ và phi pháp, như trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, hay ở Ukraine ngày nay. Nhưng nó đã thất bại khi được sử dụng để lật đổ các chính phủ nước ngoài và áp đặt nền dân chủ , đặc biệt là khi nó thiếu các đối tác địa phương đáng tin cậy. Dù những nỗ lực như vậy có thể thành công trong ngắn hạn (ví dụ như Iran năm 1953, Afghanistan năm 2001, Iraq năm 2003, hoặc Libya năm 2011)

Nói rộng hơn, chính sách đối ngoại của Mỹ hoạt động tốt nhất khi nó thừa nhận sự khác biệt giữa các quốc gia, không khăng khăng rằng mọi quốc gia trên Trái Đất đều phải chấp nhận các giá trị chính trị của Mỹ, và thúc đẩy nền dân chủ bằng cách trở thành tấm gương mà nước khác có thể noi theo, với tốc độ và cách thức của riêng họ. Chính sách đối ngoại của Mỹ đã thất bại khi các nhà lãnh đạo nước này coi nền dân chủ tự do kiểu Mỹ là công thức kỳ diệu để đạt được thành công về chính trị và kinh tế, cho rằng tất cả nhân loại đều khao khát tự do vượt trên mọi giá trị khác, và tự thuyết phục rằng họ biết cách xây dựng quốc gia ở những vùng đất rất khác biệt so với Mỹ.

Chính sách kinh tế đối ngoại của Mỹ đã thành công khi tìm cách khuyến khích sự cởi mở, nhưng vẫn cân nhắc đến ổn định kinh tế và xã hội. 

Sự hợp tác kinh điển về thỏa hiệp sau Thế chiến II dựa trên chủ nghĩa tự do ,vừa khuyến khích thương mại và tăng trưởng, vừa cách ly người dân trong nước khỏi những hậu quả nặng nề nhất của toàn cầu hóa , là một trong những thành công như vậy. Chính sách kinh tế đối ngoại của Mỹ đã thất bại khi Mỹ quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ tràn lan (như trong những năm 1930), hoặc khi nước này đặt thị trường lên trước mọi cân nhắc khác (như trong chiến lược siêu toàn cầu hóa của chủ nghĩa tân tự do). Trong trường hợp thứ hai, kết quả là sự bất bình đẳng chứa đựng nguy cơ chính trị, các cuộc khủng hoảng tài chính lớn, và chuỗi cung ứng dễ bị tổn thương bởi những cú sốc bất ngờ.

Chính sách đối ngoại của Mỹ đạt được nhiều thành tựu hơn khi nó đặt ngoại giao lên hàng đầu, như với việc phát triển Kế hoạch Marshall, tạo ra các hệ thống liên minh ấn tượng ở châu Âu và châu Á, đàm phán hòa bình Ai Cập-Israel, đạt được các thỏa thuận thương mại với các đối tác kinh tế, hoặc theo đuổi các thỏa thuận kiểm soát vũ khí với địch thủ của mình. Các nỗ lực đàm phán của Mỹ thành công khi các nhà lãnh đạo Mỹ nhận ra rằng các quốc gia khác cũng có lợi ích riêng của họ, và một thỏa thuận thành công phải mang lại điều gì đó có giá trị cho tất cả các bên tham gia. Ngược lại, các nỗ lực của Mỹ thất bại khi Mỹ từ bỏ ngoại giao chân chính và đàm phán trên cơ sở một mất một còn: đưa ra tối hậu thư, tăng cường các biện pháp trừng phạt, và từ chối các thỏa hiệp đôi bên cùng có lợi.

Chiến thắng ở Ukraine  sẽ không phải là một sự kiện quan trọng như sự sụp đổ của đế chế Liên Xô cũ. Nó sẽ không mở ra một thời điểm đơn cực khác, bởi vì Trung Quốc mạnh hơn nhiều so với những năm 1990, và cuộc chiến Ukraine đã không thay đổi thực tế đó. 

Thật vậy, nếu Ukraine (và phương Tây) giành chiến thắng, họ vẫn phải đối mặt với một danh sách việc cần làm đã tồn tại trước khi quân đội Nga vượt qua biên giới Ukraine. Đó là: 1) ngăn chặn thảm họa biến đổi khí hậu và đối phó với những hậu quả nghiêm trọng mà nay đã rõ ràng; 2) đối trọng lại và can dự với Trung Quốc; 3) ngăn Iran phát triển bom hạt nhân; 4) quản lý một nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn. 

những mục tiêu quan trọng này đòi hỏi phải thiết lập các ưu tiên rõ ràng và tránh các cuộc thập tự chinh không cần thiết. Sẽ không ai có thể ngăn những “diều hâu” ủng hộ Ukraine hả hê khi chiến thắng. Nước Mỹ


phải tránh được 1 Sự đụng độ với Trung Quốc. Chiến tranh với Trung Quốc là 1 thảm hoạ gấp nhiều lần với chiến trường Nga -Ucraina. Nó là sự sụp đổ của thế giới đã định hình từ 1945 đến nay. THẢM KHỐC VÀ KHÔNG THỂ LƯỜNG NỔI.

Công nghệ chiến tranh Ucraina

 Lâu rồi cũng mới viết nha các bác , em thì thích viết về địa chính trị  hơn là 1 vài chủ đề nhỏ nhỏ , em định viết về TRUNG Quốc , Nga , Mỹ cơ vì đó mới là những đối tượng em nghiên cứu , nó ảnh hướng đên các vùng lãnh thổ , địa chính trị quan trong và ảnh hưởng đến VN .

Chiến sự UCR cũng nên cập nhật 1 tý  các bác nhỉ ? tin tức thì các bác đọc nhiều rồi , em chỉ phân tích các diễn biến dạo gần đây thôi :






UCR đã nhận được bom đạn chùm DPICM 155 mm , có lẽ cũng nhận được luôn bom chùm ( cần phân biệt bom chùm và bom bi nha các bác ) việc UCR nhận đạn DPICM 155mm ( ucraina đề nghị mỹ cấp ) là 1 đòi hỏi hết sức thông minh , đạn chùm 155mm dùng chống lại bọn đào hang dưới các tán rừng ven đô , tiêu diệt sinh lực địch dưới hào vốn là khắc tinh của hoả lực đạn nhọn bắn thẳng là rất hiệu quả  , trong bối cảnh đạn pháo 155mm của phương tây đang cạn kiệt thì việc chuyển sang đạn pháo DPICM 155mm là sự bổ sung rất quan trọng , mỹ có đến hàng triệu đơn vị đạn pháo và bom loại này , với khả năng bắn đạn qua các phương tiện pháo binh M777 và các phương tiện pháo tự hành mà UCR đang có , nó mang lại sức huỷ diệt trên diện rộng  có lựa chọn . tầm bắn xa hơn pháo nga , chính xác hơn nhờ những phương tiện dẫn bắn hiện đại .vì đạn có sẵn nên không cần đặt mua gì , chỉ việc chất lên tầu chở sang UCR là xong . và như các bác thấy đạn chùm 155mm đã đến UCR rất nhanh , 2 ngày hôm nay đã thấy có video quân Ucraina đã đưa vào sử dung .

Còn bom chùm thì em rất mong mỹ sẽ chuyển giao loaị CBU -97 , không được nhầm nhầm bom chùm với bom bi là vì nó nghĩ rằng khi nổ nó bắn ra các viên bi vonfram siêu cứng . 

Với các bom thế hệ như CBU-97 nó là công nghệ rất cao cấp về đầu đạn con cảm biến . 

Bom này chứa 10 quả đạn con BLU-108 , mỗi quả đạn con lại chứa 4 đầu đạn con cảm biến được gọi là skeets . Tấn công dùng phương  thức xuyên động năng . Tiêu diệt cả xe tăng . Thiết giáp. Phá hủy công sự , tiêu diệt bộ binh phạm vi rộng.

1 quả CBU -108  chứa 40 Skeets quét một khu vực 460 x 150 mét bằng cảm biến hồng ngoại và laser, tìm kiếm mục tiêu bằng cách khớp mẫu. Khi một con Skeet tìm thấy mục tiêu, nó sẽ bắn một thiết bị xuyên phá dạng nổ để tiêu diệt mục tiêu. Nếu một Skeet không tìm thấy mục tiêu, nó sẽ tự hủy ở độ cao 15 mét so với mặt đất ,  nếu điều này không thành công, bộ hẹn giờ dự phòng sẽ vô hiệu hóa Skeet. Các tính năng này nhằm tránh thương vong dân sự sau này do bom, đạn chưa nổ và đạt  đến tỷ lệ bom chưa nổ dưới 1%. Hiệu quả của bom đạt 99, 90% kích nổ ngay sau khi được kích hoạt .

Khi CBU-97 tiếp cận điểm ngắm được chỉ định của nó, lớp vỏ bị cắt thành ba tấm bằng một lượng chất nổ nhỏ ,  dòng khí nóng làm bong  các tấm bảo vệ  này, để lộ 10 quả bom, đạn con BLU-108. Một túi khí đẩy 5 quả bom, đạn con phía trước, sau đó là 5 quả ở khoang phía sau. Theo một mốc thời gian định sẵn, các quả bom, đạn con bung dù sao cho chúng cách nhau khoảng 30 mét . Sau đó, mỗi quả bom, đạn con được tách khỏi  máng của nó, bắn một động cơ tên lửa dừng quá trình hạ xuống của nó và quay nó trên trục dọc . đồng thời thả các Xiên lệch nhau 90 độ theo từng cặp. Mỗi chiếc Xiên  quay tạo ra một chuyển động hình nón cho phép nó quét một khu vực hình tròn trên mặt đất. cảm biến Lazer phát hiện những thay đổi về độ cao địa hình , chẳng hạn như đường viền của xe. Đồng thời, các cảm biến hồng ngoại phát hiện các dấu hiệu nhiệt, chẳng hạn như các dấu hiệu phát ra từ động cơ của xe. Khi phát hiện sự kết hợp giữa các đường chiều  cao và dấu hiệu nhiệt biểu thị của mục tiêu, Skeet sẽ phát nổ, bắn ra một thiết bị xuyên giáp dạng nổ (EFP), một thiết bị xuyên động năng , xuống mục tiêu ở tốc độ cao, đủ để xuyên qua lớp giáp và phá hủy bất kể là thiết bị bọc giáp kiểu gì .

Đây là 1 loại bom  , đạn con rất thông minh,  tấn công diện rộng .Mỗi quả bom có thể  xuyên phá, càn quét trên diện tích 61.000 m vuông .

Đây là 1 giải pháp phải nói là rất cực đoan cho cuộc chiến bởi mức độ tàn phá rất lớn của bom chùm Mỹ , 1 máy bay như cường kích SU -25 đã đủ sức mang 1 lần 2 trái , nó ném 1 vị trí tập kết binh lực thì phải nói , ở diện tích 60 ngàn m vuông sẽ như bề mặt mặt trăng , không có gì cao hơn mặt đất và phát ra nhiệt mà thoát được đòn tấn công như vậy. lối đi này là cực đoan và rất thảm khốc về mặt tốc độ công kích .

Bây giờ hiện có 13 nước phương Tây đồng ý kí kết các hiệp ước song phương nhằm đảm bảo an ninh cho Ukraine. Nếu con số này tới 30 nước thì có nghĩa là Ukraine sẽ ở trong NATO mà ko cần gia nhập NATO. Đây là một hình thức lách luật mà NATO đề ra trước đó là ko kết nạp một thành viên đang có tranh chấp lãnh thổ với nước khác. Có nghĩa là Nga ko thể kéo dài chiến tranh mãi mãi để ngăn cản Ukraine gia nhập NATO. Châu âu trong 10 năm tiếp theo sẽ dựa vào sự đổi mới của ucraina, Thụy Điển, ba lan , Anh quốc làm trung tâm cho quyền lực chính trị trên lục địa già . ucraina với những thời vận mới trong 10 năm tới sẽ tuyệt đối trở nên tiền đồn quan trọng có tiếng nói trên toàn bộ khu vực đông âu và trung á . ucraina bước ra cuộc chiến với tư cách 1 dân tộc chiến thắng đại Nga  , tiếng nói rất lớn từ chính trị đến quân sự. Ucraina đủ nguồn lực về tài nguyên để hấp dẫn châu âu và mỹ đổ tiền vào tái thiết đất nước. 1 quốc gia lớn nhất châu âu và giàu tài nguyên như ucraina được dẫn dắt toàn những lãnh đạo trẻ thì chả mấy chốc nó sẽ là nhà cung cấp nguyên liệu thô lớn nhất cho châu âu và nắm giữ con đường huyết mạch của nga vào châu âu ( cái này bài sau em xẽ nói rõ hơn ) . Mô hình nhà nước Ucraina có lẽ sẽ như mô hình của phần lan , chứ không theo mô hình kinh tế , và thể chế như Đức hoặc Anh .

Chiến trường Ucraina nơi đối đầu của phương thức tác chiến hiện đại và lối đánh thế chiến . 1 nghịch lý của chiến tranh hiện đại đang đặt ra rằng, số lượng có quan trọng không khi vũ khí ngày càng chính xác và thông minh ? 

Chúng ta nhận ra rằng, số lượng vẫn rất quan trọng . ít nhất là về mặt tinh thần và là đòn bẫy cho việc ra quyết định của các cấp chỉ huy . 

Vào thập niên 1970, các tướng lĩnh Liên Xô nhận ra rằng nước Mỹ, với ưu thế về vi điện tử, đã vượt lên trước trong cuộc đua phát triển các loại vũ khí tầm xa có độ chính xác cao, các hệ thống cảm biến (ví dụ như vệ tinh) để chỉ thị mục tiêu, và các mạng lưới giúp kết nối hai thành tố đó lại với nhau. Họ đã gọi toàn bộ chuỗi công nghệ này với một khái niệm gọi là  “tổ hợp trinh sát-tấn công” (reconnaissance-strike complex). Chiến dịch Bão táp Sa mạc, một chiến thắng chóng vánh của Mỹ trước Iraq vào năm 1991, dường như đã trở thành một ví dụ chứng minh cho khái niệm trên. Tại sao lại phải ẩn nấp trong những chiến hào khi bạn có thể làm tê liệt kẻ thù với các đòn tấn công như đặt vào các sở chỉ huy và hậu cần ở sâu trong hậu phương? Các chiến lược gia Mỹ đã ca ngợi bước ngoặt mới đó là “cuộc cách mạng trong quân sự” (revolution in military affairs hay RMA). Ngay các lực lượng quân sự dày dặn kinh nghiệm như quân đội Israel cũng đồng ý với điều này. Các tướng lĩnh cao cấp của Israel tin rằng quá trình điều động các nhóm quân theo đội hình lớn sẽ không còn là một phần quan trọng của các cuộc chiến tranh tương lai nữa. “Chiếm đóng lãnh thổ sẽ bị xem là không còn cần thiết, và thậm chí là…phản tác dụng”. Chiến thắng của Azerbaijan trước Armenia vào năm 2020 đã một lần nữa khẳng định sự thống trị của các loại vũ khí chính xác so với lục quân, họ nhận xét  “chúng tôi nhận thấy các khái niệm chiến tranh kiểu cũ, ví dụ như tiến hành các trận đấu tăng lớn trên lục địa Châu Âu, đã trở nên lỗi thời”. “Chúng ta sẽ phải đầu tư vào những thứ khác tốt hơn như tác chiến mạng – đây sẽ là những thứ quyết định tương lai chiến tranh. Và rồi tất cả những điều đó đều được Nga thể hiện ngược lại ở chiến trường Ucraina , cuộc chiến đang xảy ra là một bài học nhãn tiền về chiến tranh tiêu hao kiểu cũ: một cuộc xung đột về nhân lực, sắt thép và thuốc nổ ở quy mô công nghiệp. Nga được cho là đã phải hứng chịu hơn 200.000 thương vong. Con số này lớn hơn gấp bốn lần số thương vong của Liên Xô tại Afghanistan, cuộc chiến vốn kéo dài một thập kỷ. Con số này cũng lớn gấp hơn 2,5 lần tổng số binh lính của lục quân Anh. Hơn 20.000 binh lính Nga tử trận chỉ trong vòng từ tháng 12 năm 2022 cho tới tháng 4 năm 2023, theo các nguồn thông tin từ Mỹ, hầu hết là ở trong và xung quanh Bakhmut. Kể từ cuộc tấn công Basra thảm hoạ của Iran vào năm 1987, chưa từng có một đội quân nào mất nhiều binh lính trong một thời gian ngắn tới như vậy, với kết quả nhận lại hầu như không có gì. So sánh cuộc chiến hiện tại với Thế chiến thứ nhất có phần hơi khập khểnh : quân đội Anh giai đoạn đó đã bắn hơn 200.000 quả đạn pháo mỗi ngày cho tới trước chiến dịch tấn công Somme vào năm 1916, so sánh với con số ước tính của Ukraine cho số đạn pháo mà quân đội Nga đã sử dụng giai đoạn cao điểm mùa hè vừa qua là 60.000 quả. Thế nhưng tốc độ tiêu hao đạn dược đã vượt quá dự báo cũng như khả năng sản xuất trước chiến tranh (khiến cho nòng pháo bị nóng chảy), phơi bày những lỗ hổng chết người của công nghiệp phương Tây. Đạn dược giống như xi măng .Người dùng không thường xuyên sử dụng chúng, nhưng khi họ cần sử dụng tới thì lại cần một số lượng khổng lồ. Cuộc phản công của Ukraine đã không thể xảy ra nếu không có nguồn cung đạn pháo dồi dào từ Hàn Quốc. 

Mức độ phá huỷ không thể tưởng tượng được cả về vật chất lẫn nhân mạng, trên một vùng không gian dày đặc chiến hào, không phải những gì mà các chuyên gia công nghệ quân sự mường tượng trong đầu khi họ nói về RMA. Loại vũ khí tối thượng của cuộc chiến, những khẩu pháo, hoàn toàn không phải là thứ gì đó xa lạ với một binh sĩ thời Napoleon. Thứ khiến Nga phải chùn bước ở phía bắc Kyiv là hai lữ đoàn pháo binh khai hoả tất cả những gì mà họ có, hằng ngày. Ukraine đóng vai trò là một lời nhắc nhở đanh thép với ý tưởng cho rằng công nghệ luôn luôn chiếm ưu thế so với số lượng: rằng chất lượng có thể thay thế cho số lượng,  nói một cách chua chát  rằng: Không ai có thể dùng không gian mạng để vượt qua một con sông, băng qua chiến hào rộng 3 mét mà không dùng đến cơ giới . Thế nhưng nghịch lý của chiến tranh là ở chỗ số lượng và công nghệ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thậm chí chiến thuật sử dụng pháo binh cũng cho thấy điều này. Nhiều tuần trước cuộc xâm lược, Mỹ gửi cho Ukraine các quả đạn pháo Excalibur. Trong mỗi đầu đạn đều được tích hợp các con chíp nhỏ và đơn giản giúp chúng có thể tiếp nhận tín hiệu GPS từ mạng lưới vệ tinh dẫn đường của Mỹ. Trong khi Nga phải dựa vào việc bắn phá cấp tập một khu vực địa lý rộng lớn, thì các pháo thủ Ukraine lại sử dụng pháo binh một cách chính xác hơn. Mỗi quả đạn bắn ra đều “hiệu quả một cách không tương xứng. Các pháo thủ không những có thể tiêu diệt mục tiêu một cách đáng tin cậy hơn, mà họ còn có thể giảm số lượng đạn cần thiết, và qua đó giảm thiểu gánh nặng hậu cần (đạn pháo thì thường khá nặng).

Các thiết bị bay không người lái (hay drone) là trái tim của tấn công chính xác bộ trưởng bộ chuyển đổi số Ucraina( mới sinh năm 91 )đã có cách tiếp cận chiến trường hết sức thông minh và mang tính thời sự . Hiện tại thì trên bầu trời đầy rẫy các loại drone: trong trận Bakhmut vào mỗi thời điểm xác định đều có 50 drone hoạt động cùng một lúc. Khoảng 86% khả năng chỉ thị mục tiêu của Ukraine là tới từ drone . Trong 6 tháng đầu tiên của cuộc chiến, một số đơn vị pháo binh Nga, vốn sở hữu drone của chính họ mà không phụ thuộc vào tổng hành dinh, đã có thể tấn công trong vòng từ 3 tới 5 phút sau khi phát hiện ra mục tiêu. Những đơn vị không sở hữu drone phải tốn khoảng nửa giờ đồng hồ để tấn công mục tiêu, và với độ chính xác thấp hơn. Drone là hoàn toàn có thể thay thế và có tuổi thọ ngắn: khoảng 90% số drone được sử dụng bởi quân đội Ukraine tứ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 2022 đều bị tiêu diệt, Dòng đời trung bình của drone cánh bằng vào khoảng 6 giờ bay; còn với drone cánh quạt đơn giản hơn thì khoảng 3 giờ. 

Quân đội các nước phương Tây từ lâu đã khao khát thực hiện một hình thức chiến tranh đặc biệt trong đó rất nhiều các loại cảm biến (từ video, ảnh nhiệt, sóng radio, v/v) có khả năng phát hiện mục tiêu, chuyển dữ liệu cho các phương tiện bắn phù hợp nhất, bất kể đó là pháo binh, tên lửa hay tàu chiến, và tạo ra một “kill chain” – hay sử dụng một thuật ngữ mới được sáng tạo gần đây, “kill web” – với sự hiệu quả và tốc độ chưa từng thấy. Đây chính là tầm nhìn của tổ hợp trinh sát-tấn công Liên Xô cũng như của RMA: một chiến trường hoàn toàn minh bạch và bán tự động , điều này duy nhất có Mỹ tích hợp được vào mạng lưới chiến tranh , như đã nói ở những bài trước , Mỹ gọi đó là tác chiến lấy mạng làm trung tâm . Ukraine chưa đạt đến mức độ đó và Nga cũng không đủ tầm để tiến hành 1 cuộc chiến như vậy bất kể trong phạm vi rộng cấp chiến dịch hay hẹp cấp chiến thuật . Ucraina đang là nơi thử nghiệm công nghệ, và để cho chúng ta thấy được khả năng của các loại công nghệ ấy. Một drone đang quay phim vị trí của quân Nga. Nếu người điều khiển drone phát hiện một xe tăng, anh ta có thể đánh dấu vị trí của chiếc xe tăng đó lên Kropyva, một ứng dụng (app) do chính người Ukraine tạo ra. Thông qua app này vị trí của chiếc xe tăng được chia sẻ cho mọi khẩu đội pháo binh có mặt ở khu vực. Hệ thống đó, đôi khi được gọi là Uber của pháo binh, kéo giảm thời gian tác chiến từ khoảng chục phút xuống còn vài phút, và chỉ vài phút đó thôi là đã đủ để quyết định thành công hay thất bại. Kết nối số giữa “cảm biến” và “phương tiện bắn” đang ngày càng được hoàn thiện hơn

Quá trình số hoá phần cứng phản ánh sự va chạm giữa các phương thức chiến tranh mới và cũ. Hầu hết vũ khí mà Ukraine nhận được là đồ cũ, ví dụ như các khẩu pháo của Mỹ hay các dàn phóng tên lửa Liên Xô vốn được thiết kế từ trước khủng hoảng tên lửa Cuba, hay chúng bị tháo bỏ các bộ phận nhạy cảm, Ukraine đang tiên phong trong việc biến đống sắt thép từ thời chiến tranh Lạnh thành một thứ gì đó có thể kết nối với nhau và là một phần của chiến tranh thuật toán. Ukraina đang có năng lực mà ngay cả lực lượng vũ trang Anh phải mất nhiều năm nữa mới đạt được .

Ở cấp độ chiến thuật, Nga đang tiến hành một hình thức của chiến tranh mạng lưới (networked warfare). Sau khởi đầu chậm chạp, Nga hiện nay đã áp dụng hệ thống chỉ huy và kiểm soát được vi tính hoá để kết nối các drone và khẩu đội pháo binh với nhau. Nga cũng sở hữu khả năng tình báo con người (ví dụ như hệ thống gián điệp) tốt và hệ thống vệ tinh của riêng mình mặc dù không giúp ích được nhiều . Thế nhưng cuộc chiến cho thấy chỉ có tình báo không thì chưa đủ:Nga  phải có khả năng sử dụng thông tin tình báo một cách hiệu quả. Việc không quân Nga thất bại trong nhiệm vụ tiêu diệt phòng không Ukraine trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến không chỉ do huấn luyện và chuẩn bị kém cỏi, mà còn bởi vì tình báo quân đội Nga đã phải tiêu tốn hai ngày hoặc hơn để chuyển thông tin mục tiêu tới trung tâm chỉ huy ở Moscow, và sau đó là tới các máy bay chiến đấu. Với khoảng thời gian lâu như thế, mục tiêu về cơ bản đã không còn ở vị trí ban đầu. Thậm chí 16 tháng sau khi cuộc chiến xảy ra, quân đội Nga vẫn đang vật lộn với việc tìm kiếm và tiêu diệt các mục tiêu di động.

Các tướng lĩnh  hoạch định quốc phòng Ukraine, ngược lại, đang tiến hành một cuộc “chiến tranh được dẫn dắt bởi dữ liệu” (data-driven combat) với tốc độ và sự chính xác mà ngay cả NATO cũng chưa đạt tới, Một phần của thành công đó tới từ các công cụ như Kropyva và Delta. Các công ty như Palantir, một công ty công nghệ Mỹ, đã sử dụng công nghệ AI tân tiến nhất để hỗ trợ Ukraine tìm ra các mục tiêu có giá trị cao. Một sĩ quan cảnh sát Ukraine đã có thể định vị binh sĩ Nga chỉ đơn giản bằng cách nghe lén 1.000 cuộc hội thoại mỗi ngày (con số này hiện nay đã cao hơn). Nếu họ tìm thấy một viên tướng, thông tin được chia sẻ trên một nhóm WhatsApp có liên quan. Lên phương án và tiêu diệt mục tiêu , Một cách đối phó với vấn đề trên là quay lại sử dụng những phương thức có tuổi đời hàng thế kỷ. Các chiến hào và công sự trải dài hàng cây số khắp phía đông Ukraine. Nguỵ trang là một chiến thuật khác, mặc dù nguỵ trang đã trở nên ngày càng thiếu hiệu quả do sử dụng phối hợp các khí tài cảm biến: màn chắn nhiệt có thể chống lại các loại camera hồng ngoại, thế nhưng radar vệ tinh có khả năng phát hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới bánh xe vốn có thể dẫn tới vị trí đang cần được che dấu. Phương thức tốt nhất để tồn tại, chỉ đơn giản là phân tán và di chuyển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát hiện mục tiêu của kẻ địch. Thậm chí ngay cả các toán biệt kích Ukraine hoạt động ở quy mô các nhóm có số lượng nhỏ cũng có thể bị drone của Nga phát hiện nếu họ dừng lại một chỗ quá lâu. Chính vì điều này . các cuộc tấn công của Ucraina rất nhanh, họ thực hiện chiến thuật liên tục di chuyển cả các đoàn xa vân tải nhu yếu phẩm , hậu cần của Ucraina chơ động rất tốt , rất hiếm khi có các trại lớn tập kết quân nhu bị phát hiện .khả năng vận động chiến của Ucrraina đến từ khả năng trinh sát tuyến đường rất tốt của các phương tiện trinh sát tầm cao và thông tin tình báo kịp thời . mức độ cơ giới hoá trong công tác hậu cần Ucraina đang là cao nhất trong 30 năm chiến tranh khu vực . Nguy cơ kể trên được phản ánh ở một chiến trường thưa thớt một cách đáng kinh ngạc . Tại Ukraine khoảng 350.000 binh lính Nga được triển khai ở tiền tuyến trải dài 1.200 cây số – khoảng 300 người mỗi cây số và, trong một số thời điểm vào năm ngoái, con số chỉ còn khoảng một nửa. Con số kể trên chỉ bằng một phần mười con số trung bình ở cùng một khu vực trong Thế chiến thứ hai. Các tiểu đoàn hàng trăm người được triển khai ở những khu vực mà trước đây đã từng in dấu giày của cấp độ  lữ đoàn với quân số hàng nghìn quân .

Kết quả là một nghịch lý đã xuất hiện. Chiến tranh chính xác cao có thể giúp chống lại một số lợi thế của chiến tranh dựa trên số lượng: Ukraine bị áp đảo 12 trên 1 ở phía bắc Kyiv. Tuy nhiên nó cũng có thể bổ trợ cho số lượng. Xác định mục tiêu dựa trên phần mềm giúp tiết kiệm từ 15-30% số lượng đạn pháo . Thế nhưng những gì mà năng lực tấn công chính xác không làm được, , thì số lượng sẽ làm được. Ý tưởng đằng sau khái niệm “tổ hợp trinh sát-tấn công” của Liên Xô hay RMA của Mỹ là chiến thắng bằng cách làm tê liệt kẻ địch, chứ không phải là làm bào mòn năng lực của chúng. Thế nhưng dường như không có cách nào để có thể thoát khỏi chiến tranh tiêu hao. Chiến tranh mà không chi tiêu quá nhiều tiền bạc  là một sự ảo tưởng. Nhiều người kỳ vọng rằng cuộc xâm lược của Nga sẽ là chiến dịch Bão táp Sa mạc thứ hai,  Nhưng Hoá ra nó lại là một cuộc chiến Iran-Iraq thứ hai .

Tất cả những điều này cho thấy rằng , nga sẽ không thể bị đánh bại 1 cách đơn giản trên các chiến hào  của  mình , thương vong Nga được bù vào số lượng lính nhập ngũ ngay sau đó , hao binh chưa bao giờ là vấn đề của Nga cả về quá khứ lẫn hiện tại , nhưng chắc chắn rằng , nga không  thể chiến thắng trong cuộc chiến này . nhưng liệu phương tây có thích hoặc cần 1 chiến thắng về mặt quân sự của Ucraina trước Nga hay không ?

1 nước nga quá yếu ớt , sẽ dựa vào Trung Quốc , 1 nước nga chia 5 xẻ 7 là điều phương tây không mong muốn , nó là 1 nguy cơ rất lớn cho cả Châu Âu và Mỹ . năm 1991 khi Nga giải thể mỹ đã phải cuống cuồng làm dịu với nga , cấp vốn , xoá nợ và hỗ trợ Nga thay đổi cơ cấu sản xuất . tất cả là bởi vì Mỹ không thể để 6 ngàn đầu đạn hạt nhân của Nga bị đưa ra khỏi đất nước . Hậu quả của việc Nga thua tại Ukraine sẽ khiến châu Âu và Mỹ phải đối mặt với những thách thức mang tính nền tảng. Giả sử một ngày nào đó Nga buộc phải rút quân, thì việc xây dựng lại Ukraine, với mục tiêu chính trị là chào đón nước này gia nhập EU và NATO, sẽ là một nhiệm vụ nặng nề. Và phương Tây không được để Ukraine thất bại một lần nữa. Mặt khác, một hình thức kiểm soát yếu của Nga đối với Ukraine có thể đồng nghĩa với việc xuất hiện một khu vực giao tranh liên tục, có nhiều rạn nứt, bất ổn, với cơ cấu quản lý hạn chế hoặc không có, nằm ngay phía đông biên giới của NATO. Đáng lo ngại không kém là viễn cảnh về một nước Nga bị suy yếu và bị sỉ nhục, âm thầm dồn nén những cảm xúc phục thù giống như những gì đã nổi lên ở Đức sau Thế chiến 1. Nếu Putin duy trì quyền lực của mình, Nga sẽ trở thành một quốc gia bị bài xích, một siêu cường bất hảo với một đội quân bị hạ cấp, nhưng kho vũ khí hạt nhân thì vẫn còn nguyên. Tội lỗi và vết nhơ của cuộc chiến Ukraine sẽ ở lại với chính trường Nga thêm vài chục năm, hiếm khi nào một quốc gia thu được lợi ích từ một cuộc chiến họ đã thua. Sự vô ích của những chi phí bỏ ra cho cuộc chiến đó, thương vong nhân mạng, và sự suy giảm vị thế địa chính trị sẽ xác định con đường cho nước Nga và cho chính sách đối ngoại Nga trong nhiều năm tới, và sẽ rất khó để hình dung một nước Nga tự do trỗi dậy sau những gì khủng khiếp của cuộc chiến này. Ngay cả khi Putin mất đi quyền lực ở Nga, nước này cũng khó có thể trở thành một nền dân chủ thân phương Tây. Họ có thể bị chia tách, đặc biệt là ở Bắc Caucasus. Hoặc cũng có thể trở thành một chế độ độc tài quân sự sở hữu vũ khí hạt nhân. Các nhà hoạch định chính sách sẽ không sai khi hy vọng về một nước Nga tốt đẹp hơn, và về cái ngày mà một nước Nga thời hậu Putin có thể thực sự hội nhập vào châu Âu. Họ nên làm những gì có thể để tạo điều kiện cho khả năng này, ngay cả khi họ chống lại cuộc chiến của Putin. Sau cuộc chiến này , phương tây phải tạo mọi điều kiện để Nga gia nhập vào khối thịnh vượng Châu Âu dưới hình thức này hay hình thức khác , không thể cô lập Nga để nga tạo mầm mống thù hằn như đế chế Đức đã làm trong những năm 1930 . 

Lịch sử đã chỉ ra rằng việc xây dựng một trật tự quốc tế ổn định là vô cùng khó khăn, nếu có một cường quốc theo khuynh hướng phục thù, bị sỉ nhục ở vị trí trung tâm của nó, đặc biệt là một cường quốc với tầm cỡ của Nga. Để xây dựng trật tự, phương Tây sẽ phải áp dụng cách tiếp cận liên tục cô lập và ngăn chặn. Giữ Nga ở thế yếu, và giữ Mỹ ở lại cùng mình sẽ trở thành ưu tiên đối với châu Âu trong một kịch bản như vậy, bởi châu Âu phải gánh trọng trách chính trong việc quản lý một nước Nga bị cô lập sau cuộc chiến thất bại ở Ukraine. Về phần mình, Mỹ  muốn tập trung vào Trung Quốc. Còn Trung Quốc có thể cố gắng tăng cường ảnh hưởng của mình đối với một nước Nga đang suy yếu – từ đó dẫn đến việc hình thành một liên minh cùng sự thống trị của Trung Quốc mà phương Tây muốn ngăn chặn vào đầu những năm cảu thế kỹ 21. Nếu một ngày nào đó, Mỹ và châu Âu có thể giúp khôi phục chủ quyền của Ukraine, và nếu họ có thể đồng thời thúc đẩy Nga và Trung Quốc chia sẻ cùng một nhận thức về trật tự quốc tế, thì sai lầm lớn nhất của Putin sẽ trở thành một cơ hội cho phương Tây. Nhưng Nga là Nga và Trung Quốc là Trung Quốc , sự khác biệt trong sức mạnh kinh tế quân sự và khao khát địa chiến lược của Trung Quốc sẽ lấn át bài học của Nga ở Ucraina . sớm thôi , 2 nền tư tưởng Mỹ và trung Quốc sẽ gặp nhau ở Châu Á thái bình dương , và điều gì đến tất yếu lịch sử đã chứng minh , sự va chạm của những nền văn minh sẽ tiếp tục trong những năm tới…


Bộ 3 -Mỹ - Trung -Việt .bộ ba khu vực ấn độ thái bình dương

 Nhân cuộc gặp sắp tới của bác Bảy bên mẽo sang thăm Việt Nam , em với các cụ đàm đạo tý nhỉ? 

Bài viết này sẽ không đi sâu vào chính trị quan hệ 2 nước , vì cái đó em đã viết rồi , các bác tìm lại bài viết về quan hệ Việt - MỸ trong Fb của em là thấy ,  với lại đó là vấn đề nhậy cảm , chúng ta không được bàn sâu trên không gian mạng đặc biệt là nền tảng Facakook . nên bài này em viết có lẽ là không hay vì không được thoải mái nói ra những thứ mình cần nói nhưng những bài phân tích địa chính trị các nước khác hay châu lục khác :

Trước Khi ông Baiden đến thăm Việt Nam . Thì ít hôm Nữa TQ sẽ là nước thăm Việt Nam trước , chúng ta thấy rằng không phải đơn giản ngẫu nhiên mà TQ lại đến thăm VIệt Nam trước Khi Mỹ đến , điều này khó nói nhưng không gì khác ngoài việc TQ phát đi cảnh báo của Mình cho Hà Nội rằng “ Bắc Kinh luôn theo sát các ý đồ của Việt Nam và ….( thật sự khó nói ) “

Như bài trước em đã phân tích rất kỹ về khả năng Việt Nam và Mỹ có thể trở thành đối tác chiến lược toàn diện hay không ? điều này phụ thuộc nhiều vào tình hình chính trị khu vực , đặc biệt là tình hình trên Biển Đông và eo biển Đài Loan , 1 chử “ tuỳ “ của Việt Nam vẫn đang đợi các tiến trình của  tình hình các điểm nóng ở Đông Á .

Nói qua 1 chút về vấn đề Trung Quốc và Việt Nam . các quan hệ kinh tế , địa chính trị rất đắc địa của VN ở biển đông và hệ thống phòng thủ địa lý của VN so với TQ .

Đối với TQ , Việt Nam có ý nghĩa mang tính chiến lược cao độ , đặc biệt là chiến lược về an ninh . VN gánh trên vai áp lực to lớn về sức nặng tổng thể quốc gia của TQ trên  cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ,  sức nặng của Trung Quốc  là vấn đề  Việt Nam nếu muốn cũng không thể làm được gì để thay đổi thực tế này ,  vì vậy cũng giống như Cuba đối với Mỹ hay gruzia  đối với Nga . Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài học cách chia sẻ số phận của mình với người láng giềng Trung Quốc , trong từng bước đi của lịch sử, trong thực tế một nước Trung Quốc mạnh hơn từ lâu đã là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với an ninh của Việt Nam . Việt Nam đã nằm dưới ách thống trị của các triều đại Trung Quốc suốt gần 1000 năm cho đến năm 938 sau Công Nguyên , từ thời điểm đó cho tới khi Việt Nam bị Pháp biến thành thuộc địa vào nửa sau thế kỷ 19 , Trung Quốc đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam một vài lần , bằng chứng gần đây nhất cho thấy Trung Quốc là nguồn đe dọa chính đối với Việt Nam chính là cuộc chiến tranh ngắn ngày nhưng đẫm máu mà Trung Quốc đã tiến hành dọc theo biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 , và cuộc đụng độ hải quân do Trung Quốc châm ngòi ở Biển Đông tháng 03 năm 1988 , các mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam không chỉ xuất phát từ sự gần gũi về mặt địa lý mà còn từ sự bất đối xứng về mặt sức mạnh giữa hai nước . ví dụ như Trung Quốc rộng gấp 29 lần so với Việt Nam và gấp 13 lần dân số của Việt Nam , mặc dù dân số của Việt Nam đông thứ 15 thế giới nhưng cũng chỉ tương đương với dân số một tỉnh tầm trung của Trung Quốc mà thôi , thành tích kinh tế ấn tượng của Việt Nam từ cuối những năm 1980 cũng không cho phép Việt Nam thu hẹp khoảng cách quyền lực với Trung Quốc , ngược lại cùng với quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc trong suốt 4 thập kỷ qua khoảng cách quyền lực giữa hai nước ngày càng được nới rộng , ví dụ theo dữ liệu của ngân hàng thế giới GDP của Trung Quốc tính theo đô la Mỹ hiện hành đã tăng hơn 16 lần trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến năm 2009 từ 307 tỷ đô la lên 4.985 tỷ đô la Tuy nhiên trong cùng thời gian trên GDP Việt Nam chỉ tăng 7 lần từ 16 tỷ đô la vào năm 1985 lên 97 tỷ đô la trong năm 2009  , hiện tại GDP TQ đã là 16 ,4 ngàn tỷ , và VN chỉ mới hơn 450 tỷ đô , 1 khoảng cách rất xa ,nhờ kinh tế phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được gia tăng mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đối với an ninh của Việt Nam  . VN chi 1 năm 6 tỷ đô , TQ chi đến hon 250 tỷ đô ( có báo cáo nói rằng , con số thực tế TQ chi cho quốc phòng phải gâp 2 lần số trên , tức là đạt gần 500 tỷ đô ) 

 Chi phí quân sự gia tăng của Trung Quốc được tập trung dành cho lực lượng không quân và hải quân , giúp TQ tăng cường khả năng triển khai sức mạnh quân sự ở khu vực biển Đông nơi mà Trung Quốc đang cố gắng bành trướng về chủ quyền.  Bên cạnh đó quá trình chuyển đổi của Việt Nam sang một nền kinh tế thị trường lại bổ sung thêm một khía cạnh khác mà Việt Nam phải gánh chịu , đó là khả năng bị tổn thương về kinh tế ngày càng gia tăng, TQ  nối lại quan hệ thương mại với Trung Quốc vào cuối những năm 1990, sản xuất trong nước của Việt Nam đã từ lâu bị đe dọa bởi hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam thông qua con đường Thương Mại chính thức lẫn buôn lậu, Ví dụ như từ đầu những năm 1990 hàng tiêu dùng Trung Quốc nhập lậu và Việt Nam quá nhiều và gây bất lợi cho sản xuất trong nước đến mức Chính phủ Việt Nam đã phải áp đặt một lệnh cấm 17 chủng loại hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. 


Một điểm dễ bị tổn thương khác chính là tình trạng thâm hụt thương mại kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc lên tới VN nằm ở bậc thấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo số liệu của Hải quan VN vào đầu năm nay, thâm hụt thương mại của VN với Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 60,2 tỉ USD  vào năm 2022 từ mức 54 tỉ USD một năm trước. Mức thâm hụt thương mại này vào năm 2008 mới là 10 tỉ USD. hơn nữa Trung Quốc đã nổi lên như là một nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm gần 1/4 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam . Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc đối với các nguyên liệu đầu vào cho một số ngành xuất khẩu chủ yếu của mình , chẳng hạn như giấy phép dệt may  , đồ nội thất , trong khi đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc . Theo số liệu năm 2022 từ Tổng cục Hải quan VN thì kinh ngạch 2 chiều VN – TQ  con số đó hiện là 175,6 tỉ USD, tức tăng gần 6.000 lần trong hơn ba thập niên , trong khi VN nhập khẩu của TQ đạt mức 117 , 76 tỷ đô , tăng hơn năm ngoái 6,6% tức là luôn tăng liên tục nhập siêu,  Vì vậy nếu Trung Quốc quyết định ngưng trao đổi thương mại với Việt Nam vì một lý do nào đó thì thiệt hại cho nền kinh tế của Việt Nam sẽ là rất lớn , một mối quan hệ được nêu lên ở Việt Nam gần đây chính là việc các công ty Trung Quốc đã giành được đến 90% các hợp đồng EPC ( là hợp đồng thiết kế – cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng tất cả các công trình của một dự án đầu tư xây dựng)  thiết kế mua sắm và xây lắp cho các dự án công nghiệp lớn của Việt Nam đặc biệt là những công trình thuộc cơ sở hạ tầng giao thông trọng điểm và các nhà máy điện than . ( cái này xin phép các bác là em không đi sâu vào nhé ,) 


Các nhà thầu TQ hứa sẽ giúp đỡ bố trí vốn cho chủ đầu tư , từ các ngân hàng Trung Quốc, dù có vẻ là rẻ , nhưng trong thực tế Việt Nam đang phải trả giá đắt cho các hợp đồng này . 

 thứ nhất công nghệ rẻ gây ô nhiễm :  các báo cáo cho thấy một số công nghệ được cung cấp bởi các công ty Trung Quốc đã bị nước ngoài đào thải hoặc cấm sử dụng từ năm 2005.

 thứ hai năng lực nhà thầu Trung Quốc hạn chế :  làm cho nhiều dự án chậm tiến độ ngay cả khi các dự án hoàn thành đúng thời hạn thì họ cũng để lại cho các chủ dự án những hóa đơn bảo dưỡng tốn kém.

 Thứ Ba : do nhà thầu trung quốc từ chối sử dụng các sản phẩm có sẵn ở địa phương , và thay vào đó nhập khẩu mọi thứ từ Trung Quốc , kể cả những chi tiết cơ bản như bu lông ốc vít nên góp phần làm cho Thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao . Nhà thầu Trung Quốc Thậm chí không sử dụng lao động địa phương mà còn đưa lao động Trung Quốc và Việt Nam làm việc bất hợp pháp gây nên sự phản đối trong công luận Việt Nam.

Nếu Trung Quốc quyết định phát động một cuộc chiến tranh kinh tế với Việt Nam, Việt Nam sẽ gánh chịu những hậu quả rất nặng nề,tuy nhiên Việt Nam dường như có ít sự lựa chọn để xử lý tình trạng dễ bị tổn thương của mình trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc , một mặt các phản ứng Nếu có sẽ bị hạn chế bởi thực tế rằng , Việt Nam hiện phải tuân thủ các luật lệ thương mại và Đầu tư quốc tế như các quy định của tổ chức thương mại thế giới mà việt nam đã là thành viên từ đầu năm 2007 . Mặt khác Việt Nam cũng phải cảnh giác về khả năng trả đũa quy mô lớn nếu có động thái tiêu cực đối với Trung Quốc . Tất nhiên ở đây cũng không thể không kể tới các điểm tích cực . Việt Nam Hy vọng rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng cho dù không đối xứng cũng sẽ giúp làm giảm khả năng Trung Quốc tấn công quân sự Việt Nam đặc biệt là trên biển đông. ngoài ra nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận thấy hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn ít tốn kém và thuận tiện hơn so với hợp tác với doanh nghiệp của nước , khác Chính vì vậy Việt Nam vẫn luôn kiên trì hợp tác kinh tế với Trung Quốc tiếp tục cố gắng gặt hái càng nhiều lợi ích càng tốt từ nền kinh tế đang bùng nổ của người hàng xóm phương Bắc. 

1 điểm đặc biệt cần phải nhận thấy rằng , địa lý chính là thứ Việt Nam trở thành đắc địa trong con mắt các đại cường thế giới .

Nhận định đầu tiên là các quốc gia không thể lựa chọn láng giềng , cụ thể Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á núi liền núi sông liền sông kể cả là biển liền biển với Trung Quốc , với vị trí án Ngữ con đường Nam Tiến cả trên bộ lẫn trên biển của Trung Quốc  , Việt Nam thường là đối tượng đầu tiên mà các hoàng đế Trung Hòa muốn trừng phạt . Việt Nam từ hàng ngàn năm qua đã gánh trên vai mình sức nặng của Trung Quốc càng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng , trong suốt thời kỳ phong kiến , Trung Quốc là mối đe dọa thường trực với Việt Nam, không có sự hỗ trợ nào khác từ bên ngoài cha ông ta buộc phải vận dụng kế sách trong đế ngoài Vương chấp nhận sống chung với lũ để bảo vệ mảnh đất tổ tiên truyền lại, và giữ gìn bản sắc dân tộc trước các tham vọng bành trướng của Trung Quốc , đến kỷ nguyên công nghiệp hóa thì các thương thuyền và chiến thuyền của châu Âu có thể vươn tới mọi ngõ ngách của địa cầu , trong một khoảng thời gian ngắn Việt Nam trở thành đối tượng để nhòm ngó của thực dân phương tây ,ban đầu các nước cường quốc châu Âu quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên , sau đó vị trí chiến lược của Việt Nam ở Giao Lộ Trung Quốc xuống Đông Nam Á và từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương ngày càng trở nên quan trọng , lực kéo và lực đẩy trong hệ thống quốc tế biến Việt Nam trở thành địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và giữ hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, vướng trong bàn cờ thế đó cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước Trước thực dân phương Tây của Việt Nam Trở nên phức tạp gay go và kéo dài , ngay cả khi Việt Nam đánh đuổi được ba Cường Quốc là Nhật, Pháp và Mỹ chiến thắng không mang lại sự đảm bảo về an ninh , sau năm 1975 quan hệ việt-trung và Việt Nam Campuchia xấu đi và Việt Nam bị đe dọa uy hiếp trên ba mặt trận biên giới phía Bắc biên giới phía Tây Nam và trên biển Đông Nguyên nhân cơ bản là do Trung Quốc không chấp nhận vị thế mới của Việt Nam ở Đông Dương và ngược lại , Hà Nội không chấp nhận sự áp đặt từ phía bắc kinh  , trong lúc đó Liên Xô mong muốn mở rộng hành động của mình ở Đông Nam Á tìm kiếm một chỗ đứng chân để theo dõi các diễn biến ở Châu Á Thái Bình Dương , tình thế đó đầy Việt Nam đi đến Liên Minh với Liên Xô để kiềm chế Trung Quốc kết quả là Việt Nam Dấn Thân Vào chiến tranh ở Campuchia và xung đột với Trung Quốc kéo dài hơn một thập kỷ , lịch sử cho thấy với vị trí địa lý nhạy cảm Việt Nam rất dễ trở thành vật cản trên con đường nước khác mở rộng ảnh hưởng hay là bàn đạp để các nước lớn kiềm chế lẫn nhau , điều đó có nghĩa là Việt Nam là một cô gái hấp dẫn nhưng cần phải hiểu là sự hấp dẫn không chỉ đến từ vẻ đẹp của cô gái mà phần nhiều là do nhà của cô gái ở vị trí trọng yếu trong cuộc so gang giữa những thằng to con đang hầm hè nhau nhằm chiếm vai trò bá chủ khu vực . 


Nói qua về VN và các nước ASEAN 


Trong khối ASEAN chỉ một mình Việt Nam là có biên giới trên đất liền từng tranh chấp với Trung Quốc, cộng thêm những tranh chấp lãnh hải đang diễn ra về Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), hai chuỗi đảo trong Biển Đông. Philippines cũng giành chủ quyền trên Trường Sa, trong khi Malaysia và Brunei lại đòi chủ quyền một phần ở đó. Những nước khác trong khối ASEAN lâu nay vẫn vui vẻ để cho Việt Nam “đứng mũi chịu sào” trước sức ép của Trung Quốc trong khi họ phát triển quan hệ mậu dịch và đầu tư mạnh mẽ hơn với Bắc Kinh. 

Cho đến nay hình như chỉ có sự hợp tác giữa  Malaysia và Việt Nam  (trong vấn đề Biển Đông) là cao nhất so với các nước khác. hai nước đã cùng đứng tên đưa hồ sơ ra trước ủy ban điều hành Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Hồ sơ này vẽ ra các vùng kinh tế riêng biệt của Việt Nam và Malaysia trong vùng Nam Biển Đông, nhưng liền bị Trung Quốc bác bỏ là “bất hợp pháp”  vì Trung Quốc đòi toàn bộ lãnh hải từ Đài Loan đến Singapore. 

Khi ngoại trưởng Hoa Kỳ tuyên bố tại Diễn đàn ASEAN vào ngày 23 tháng Bảy năm ngoái rằng Hoa Kỳ có một “lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại trên biển, tự do sử dụng các hải phận quốc tế châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Nam Hải”, Indonesia, Singapore, Malaysia, Phippines, Brunei và Việt Nam trong số mười hai quốc gia liền biểu lộ sự đồng tình về một “tiến trình ngoại giao có sự hợp tác đa phương”. Bằng cách dấn thân vào cuộc tranh chấp Biển Đông, Hoa Kỳ bắt đầu hậu thuẫn ASEAN triển khai một đối sách chặt chẽ hơn ở trong vùng này. Tin tức cho hay , Việt Nam đã thúc đẩy Hoa Kỳ phải có lập trường cứng rắn hơn nữa với Trung Quốc. Và Hà Nội sẽ hưởng được nhiều lợi thế nhất nếu các quốc gia ASEAN luôn luôn đoàn kết nhau khi đối phó với Trung Quốc.

Ấn Độ là một đối tác khác trong vùng có cùng một mục tiêu chiến lược với Việt Nam. Vào ngày 27 tháng 2, hai nước đã đồng ý tăng cường hợp tác quốc phòng nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của tham mưu trưởng quân đội Ấn Độ .  New Delhi và Hà Nội có cùng quan tâm chiến lược đối với Trung Quốc và, qua lịch sử, hai chính phủ đã thừa hưởng những quan hệ rất gần gũi, những quan hệ được nhào nặn từ các cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa thực dân.Và Cả hai quân đội đều sử dụng các trang bị tương tự do Nga chế tạo.

Một hợp đồng bề ngoài mang màu sắc thương mại, nhưng thực chất có thể đã tăng cường quan hệ chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam.Tập đoàn BP, vì muốn gây vốn để chi trả các phí tổn cho việc dọn sạch môi trường sau vụ rò rỉ dầu trong Vịnh Mexico, đã rao bán đủ loại tài sản trên toàn cầu, gồm cả phần hùn đầu tư tại vùng trũng Nam Côn Sơn nằm ngoài khơi duyên hải nam Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã cho phép một tổ hợp gồm các hãng năng lượng quốc doanh Ấn Độ và Petro Việt Nam sang lại phần hùn của BP.

Một điều có ý nghĩa là, dự án khai thác khí đốt thiên nhiên trên qui mô lớn này nằm trong vùng trũng Nam Côn Sơn, nơi mà BP đã công bố vào tháng Ba 2009 là sẽ ngưng việc thăm dò, vì sức ép của Trung Quốc. Bằng cách quay sang các hãng Ấn Độ khó bị Trung Quốc đe nẹt hơn, Việt Nam đang mạnh dạn xác định quyền khai thác năng lượng trong đặc khu kinh tế 200 hải lý của mình. 

Trong khi đó, Nhật Bản và Việt Nam vừa mới công bố thiết lập đối thoại an ninh song phương giữa các viên chức ngoại giao và quốc phòng của hai nước. Các cuộc đối thoại an ninh quốc phòng là một diễn biến có ý nghĩa trong mối quan hệ song phương của hai nước, một mối quan hệ cho đến nay chỉ tập trung vào thương mại và viện trợ. Nhật Bản cũng đang mở ra các đối thoại tương tự với Hoa Kỳ, Australia và Ấn Độ.

Thật không mấy ngạc nhiên khi Việt Nam phải đi nước đôi, nước ba để chống lại mối đe dọa chiến lược của Trung Quốc. Hai nước có một lịch sử xung khắc lâu dài, kể cả việc Trung Quốc giành lấy quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam năm 1974. Hai nước láng giềng cũng lâm vào một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi năm 1979 và đánh nhau một trận hải chiến tại quần đảo Trường Sa năm 1988.  Tuy nhiên, hiện nay, ngay trong giới lãnh đạo Việt Nam hình như đã có một sự đồng thuận tương đối về việc phải quân bình ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách phát triển quan hệ với các cường quốc khác trong vùng, như Hoa Kỳ, Hàn Quốc , Nhật Bản  và Ấn Độ. Sự đồng thuận trong Đảng sẽ diễn ra như thế nào và những quan hệ chiến lược với các cường quốc sẽ phát triển như thế nào, hai khả năng này phần lớn tùy thuộc vào cán cân lực lượng đạt được giữa 2 cấu trúc quyền lực đồng minh cảu MỸ và phần còn lại của TQ và ( 1 phần rất lớn ở quyết tâm của lãnh đạo đảng …) 


Ngày nay, Mỹ và các đối tác châu Á của họ đang tích cực cân bằng – như kỳ vọng của lý thuyết cân bằng quyền lực/ cân bằng đe dọa – nhưng liệu họ có làm đủ hay không thì gần như không thể đoán trước. Nếu câu trả lời là đủ, Trung Quốc sẽ khó mà trở thành bá quyền châu Á và nguy cơ chiến tranh sẽ giảm xuống. Nếu câu trả lời là không đủ, có lẽ chúng ta nên lo lắng hơn một chút. Phần lớn vấn đề phụ thuộc vào việc liệu Mỹ có thể lãnh đạo một liên minh dễ bị chia rẽ và tìm ra điểm cân bằng giữa làm quá nhiều và làm quá ít hay không. Và ai sẽ muốn đặt cược vào điều đó?

Vấn đề sau cùng với Mỹ  không phải là về Trung Quốc, mà là về cách phần còn lại của thế giới sẽ phản ứng. Một mô hình rõ ràng đang nổi lên: Các quốc gia châu Á lo lắng nhất về Trung Quốc đang xích lại Nga  và hướng ánh nhìn không thân thiện  về Mỹ; phần lớn châu Âu miễn cưỡng đi theo sự dẫn dắt của Mỹ, bởi họ vẫn phụ thuộc vào sự bảo vệ của Mỹ và do đó không có nhiều sự lựa chọn; Nga cũng có rất ít sự lựa chọn ngoài việc gắn bó với cường quốc đối tác duy nhất của mình là TQ ; và các cường quốc tầm trung trên khắp thế giới đang phòng bị nước đôi, tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng chiến lược (về thương mại và đầu tư, quan hệ ngoại giao và hỗ trợ quân sự), đồng thời cố gắng tránh phải chọn phe. Nhìn về phía trước, chúng ta sẽ thấy một trật tự thế giới trông giống thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh đến mức đáng ngạc nhiên: Mỹ liên kết với châu Âu, phần lớn Đông Á và Thái Bình Dương, Trung Quốc liên kết với Nga và một số nước đang phát triển chủ chốt, trong khi các cường quốc tầm trung khác dao động giữa hai bên. Đội hình cuối cùng sẽ không phải là một đội hình hoàn hảo, và một số người chơi sẽ đổi đội, nhưng mô hình tổng thể giống với mô hình mà chúng ta từng thấy trước đây.

1 đối tác chiến lược với mối quan hệ được nâng tầm vị thế ở Việt Nam trong khu vực cùng Mỹ là 1 trong những ƯU Tiên hàng đầu , nhưng tôi nói ở bài trước , thời điểm nào , bối cảnh nào để mối quan hệ VIỆT- MỸ  được nâng lên tầm đối tác chiến lược thì chúng ta không thể đoán , nếu đến sớm quá , chúng ta có chịu được áp lực khổng lồ từ TQ hay không ? còn nếu quá muộn , chúng ta sẽ mất đi cơ hội để nâng tầm vị thế cường quốc về đia lý của khu vực , sự cảnh báo của TQ với chúng ta luôn hiện hữu , luôn nặng nề , TQ có nhiều con bài để răn đe , mặc cả với chúng ta từ kinh tế , chính trị đến đường lối ngoại giao và tiềm lực quân sự . 

Rào cản lớn nhất trong quan hệ Việt-Mỹ chính là “yếu tố Trung Quốc”. Tuy quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến rất xa, nhưng đến nay hai nước vẫn chưa chính thức nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược” như thực chất và mong đợi. Tuy TBT Nguyến Phú Trọng chưa đi thăm Mỹ vào năm 2019 theo lời mời của Tổng thống Trump vì “lý do sức khỏe”, nhưng ai cũng hiểu lý do chính là vì “yếu tố Trung Quốc”.

Sau khi Tập Cận Bình lên cầm quyền (năm 2012) nguồn vốn của Mỹ và phương Tây đã liên tục đổ vào Trung Quốc. Nhưng trong 10 năm tiếp theo, Tập đã tìm cách loại bỏ ảnh hưởng phương Tây một cách triệt để và có hệ thống, để trật tự kinh tế dựa trên ý thức hệ. Điều khiến “lễ đăng quang” của Tập trở thành “món quà” đối với phương Tây là ông đã lật ngửa các quân bài của mình, và át chủ bài duy nhất vẫn là lịch trình “thống nhất” Đài Loan.

Trong bối cảnh Mỹ tập hợp lực lượng để đối phó với Trung Quốc và tìm cách lôi kéo Việt Nam thành đối tác chiến lược, Việt Nam bị mắc kẹt vào thế lưỡng nan, buộc phải chơi cờ thế với chính sách “ba không” và “không chọn phe”. Chiến tranh Urkaine đã đẩy Nga và Trung Quốc thành đồng minh “không giới hạn”, nên Việt Nam càng phải “đa dạng hóa quan hệ” để không bị bất ngờ và giảm lệ thuộc vào Nga và Trung Quốc. 

Tóm lại :

Không phải ngẫu nhiên mà cả Thái Lan và Việt Nam đều vận dụng “ngoại giao cây tre” để tồn tại giữa hai siêu cường thường xung đột hay hòa hoãn với nhau như “hai con voi trong cửa hàng đồ sứ”, có thể gây tai họa cho các nước láng giềng nhỏ hơn. Đó là tình thế lưỡng nan không chỉ với Việt Nam mà còn với một số nước ASEAN khác. Họ buộc phải “không chọn phe” và chơi cờ thế để “cân bằng chiến lược”. Về kinh tế, Trung Quốc đã phát triển thần kỳ, trở thành siêu cường kinh tế thứ hai trên thế giới, nhưng về chính trị, Tập Cận Bình đã quay ngược lịch sử, trở lại mô hình độc tài như thời Mao Trạch Đông hay hoàng đế Trung Hoa. Hai thái cực đó sẽ tạo ra dòng xoáy trái chiều như một cái “hố đen” hay một cái bẫy lớn. Về đối ngoại, quyết định bỏ chủ trương “giấu mình chờ thời” và thách thức Mỹ, là một sai lầm chiến lược của Tập Cận Bình.

Về lâu dài, đó không phải là sức mạnh tiềm tàng mà là “gót chân Asin” của Trung Quốc, có thể biến thành quả hiện nay thành “lâu đài bằng cát ”. Dù Trung Quốc có xuất khẩu mô hình phát triển của họ hay không, Việt Nam cần tìm cách “thoát Trung”. Trong nhiều năm tới, Trung Quốc vẫn là đối thủ chiến lược của Mỹ và phương Tây, nên Việt Nam cần khôn khéo để tránh bị mắc kẹt vào cuộc cạnh tranh chiến lược đó.


Tản mạn chuyện báo chí

 Hôm nay mới ngồi nói chuyện với 1 người anh , gọi là tiến sỹ xã hội học. Và tôi phải nói rằng những người có hàm vị cao như anh kia cũng đang có những nhận định sai lầm về tình hình biển đảo của VN chứ đừng nói đến người dân . Rất nhiều người lầm tưởng chúng ta có tranh chấp hải đảo hay các vùng nước thuộc quyền tài phán của VN. 

Tôi không đồng ý  với cách báo chí và các phát ngôn của 1 số người có ảnh hưởng rằng " Việt Nam và Trung Quốc có tranh chấp ở 1 số khu vực " điều đó là sai lầm . vì đơn giản . những vùng lãnh thổ , vùng nước , hải đảo vốn dĩ đã thuộc về Việt Nam theo công ước của Liên Hợp Quốc thì cái gọi là tranh chấp là 1 định nghĩa sai lầm. Mà cái đó phải gọi đúng bản chất là " Trung Quốc đang Xâm lược , cướp đất của chúng ta " . bởi đơn giản tranh chấp là thuật ngữ chỉ việc 2 bên tranh dành 1 cái gì đó vốn không thuộc về cả 2 hoặc chưa phân định được thuộc về bên nào. Còn đây . biển đảo và thềm lục địa 200 hải lý đã là của VN , được Liên Hợp Quốc công nhận thì hoàn toàn không thể nói là tranh chấp . vì thực tế nó là quyền , chủ quyền của VN đã được bảo hộ trên nguyên tắc luật quốc tế. TQ không có quyền gì ở khu vực 200 hải lý của VN để mà phải " tranh chấp " cả. Vì vậy báo chí nói rằng . TQ tranh chấp với chúng ta ở khu vực 200 hải lý là nhận định sai , nó đặt ra nghi ngờ về  tính chính danh về quyền chủ quyền , quyền tài phán và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam chiếu theo luật pháp quốc tế. 

đây là một quan điểm có tính nguy hiểm tiềm năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn vẹn chủ quyền, cho công cuộc bảo vệ chủ quyền, các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông, mà chiếu theo Công ước LHQ về Luật Biển 1982, Việt Nam hoàn toàn có quyền lợi hợp pháp để làm chủ và khai thác, trong khi một yêu sách chủ quyền bằng bản đồ đường chín đoạn của một bên ‘tranh chấp’ (vốn đòi chiếm gần như toàn bộ Biển Đông) đã bị một tòa án trọng tài quốc tế (PCA) thẳng thừng bác bỏ.

Việt Nam cần hết sức cảnh giác trước ‘một cạm bẫy’ hay quan điểm như cách Trung Quốc gợi ý với các nước 'khai thác chung' ở những vùng mà Trung Quốc gọi là có 'tranh chấp' chủ quyền biển đảo, nhất là trong tình hình trên Biển Đông hiện nay, nơi mà thực chất Trung Quốc thường xuyên tự biến đổi nguyên trạng và gây thành ‘tranh chấp’, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc kiên quyết từ chối đề nghị dạng này của Trung Quốc qua kinh nghiệm bảo vệ chủ quyền ở các đảo tại Senkaku. 

Theo như lời của Đặng Tiểu Bình mở đầu khi giải quyết với Nhật Bản vấn đề tranh chấp Biển Hoa Đông. Và quan điểm nhất quán của Trung Quốc không phải là "‘gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác’", mà là ‘"chủ quyền thuộc vùng tranh chấp "’ tức ‘"cái này là của tôi"’ nhưng bây giờ tôi tạm gác lại sự tranh chấp để cùng với anh khai thác. Đây là luận điệu rất nguy hiểm về đánh tráo khái niệm quyền chủ quyền của nước sở tại. 

Và chính vì như vậy, tại sao TQ  không đầu tư vào trong đất nước của tôi, bằng luật đầu tư nước ngoài, bằng tất cả những quy định của nhà nước sở tại để khai thác, để tạo ra một môi trường hòa bình, ổn định, cùng nhau phát triển, mà anh cứ khăng khăng rằng đây là chủ quyền của anh. Mà chúng ta biết rằng Trung Quốc hiện nay không bao giờ rút lui yêu sách ‘đường lưỡi bò’ và nhất là tuyên bố ‘chủ quyền’ của họ ở cái gọi là ‘tam sa’, rồi ‘tứ sa’, và quan điểm đó Trung Quốc ‘bất di bất dịch’ mà họ gọi là "bất khả kiến nghị ". Vì vậy truyền thông đã sử dụng cụm từ ‘tranh chấp’ đối với những khu vực trên Biển Đông và khu vực mà Trung Quốc vốn chưa bao giờ có chủ quyền từ trước là một sự ‘nhầm lẫn’ không thích hợp, thậm chí là ‘sai trái’.

Không có lý gì khu vực Hoàng Sa, Trường Sa, khu vực ở Biển Đông thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam mà Trung Quốc là bên đi xâm lược, tôi không dùng chữ ‘tranh chấp’, một số tờ báo ở trong và ngoài nước  hay nhầm lẫn khái niệm này, cứ nói đây là vùng ‘tranh chấp’, Việt Nam có ‘tranh chấp’; câu đó hoàn toàn sai, mà Trung Quốc là kẻ đi xâm lược và tham vọng của họ bắt đầu từ năm 1909 khi họ đi thám sát đảo Hoàng Sa của Việt Nam và họ bắt đầu tuyên bố ‘chủ quyền’. Rồi bắt đầu đến thập niên 1930, họ bắt đầu lấn xuống Trường Sa, như là ngày nay chúng ta đã biết tình hình rất rõ. Và phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực được thành lập theo phụ lục của UNCLOS 1982 đã phán quyết trong vụ kiện của Philippines rằng (yêu sách chủ quyền) ‘đường lưỡi bò’ không được công nhận bởi công pháp quốc tế và Trung Quốc không có chủ quyền ở khu vực Biển Đông. Xin nhắc lại rằng Trung Quốc không có chủ quyền gì ở khu vực Biển Đông và lãnh thổ của Trung Quốc trong tất cả các bộ chính sử, 24 bộ chính sử của Trung Quốc, rồi các thư tịch, bản đồ của Trung Quốc đã thể hiện, biên giới của họ chỉ kéo đến đảo Hải Nam. 

Chính vì vậy, nếu chúng ta quên cội nguồn lịch sử của ý chí xâm lược của Trung Quốc, tham vọng của Trung Quốc tiến về phương Nam để mở rộng bờ cõi, mở rộng an ninh của họ, để tiến ra khu vực Ấn Độ Dương, tiến về cả châu Phi, thì chúng ta đã vướng vào một trận thế mà Trung Quốc bày ra để chúng ta sập bẫy vào ý đồ đó.  Bao giờ Trung Quốc rút lui yêu sách ‘đường lưỡi bò’, bao giờ Trung Quốc rút lui yêu sách ‘Tam Sa’, ‘Tứ Sa’, thì mới nói đến vấn đề cùng khai thác. Nhưng không phải là khai thác (chung) ở khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam, cũng không ở khu vực thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, mà chuyện đó là khai thác (chung) ở ngoài khu vực biển cả, thì mới có thể nói là cùng khai thác. Còn tất cả ai muốn vào Việt Nam khai thác, phải chấp nhận luật pháp Việt Nam, theo luật đầu tư của Việt Nam, theo các quy định, chủ trương của Việt Nam về vấn đề khai thác kinh tế biển.”


Khi được hỏi sau khi nhận được lời ‘đề nghị, gợi ý’ từ phía Trung Quốc về việc ‘khai thác chung’ ở khu vực ‘tranh chấp’ trên Biển Hoa Đông, mà được cho là ở khu vực đảo Senkaku theo cách gọi của Nhật Bản (Trung Quốc gọi là Đảo Điếu Ngư), thì chính phủ Nhật Bản đã phản ứng rất kiên quyết . Nhật Bản kiên quyết bác bỏ, không có chuyện ‘gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác’ khi mà vế đầu Đặng Tiểu Bình đưa ra với thủ tướng Nhật Bản là ‘"chủ quyền thuộc khu vực tranh chấp "’, và cho tới ngày nay chưa hề có một kế hoạch hành động, chưa hề có một hợp tác nào khai thác vùng biển ‘tranh chấp’ giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Và tôi nói rằng thái độ kiên quyết của chính phủ Nhật Bản cũng là một bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…

chính phủ Nhật Bản rất cứng rắn trong vấn đề chủ quyền và họ không nhân nhượng, Nhật Bản không bao giờ nhân nhượng chủ quyền cho Trung Quốc, họ biết rằng nếu nhân nhượng một phần, thì Trung Quốc sẽ lấn tới. Do đó, vấn đề Senkaku là vấn đề sống còn của Nhật Bản. Và hiện nay, chúng ta thấy rõ việc đấu tranh giữa Nhật Bản với Trung Quốc xung quanh vấn đề Senkaku vẫn còn tiếp tục, nhưng nóng lạnh thế nào là do mối quan hệ Nhật – Trung.

Sự nguy hiểm của Trung quốc đã cho thấy mức độ xâm lấn của TQ ở vùng Biển Đông đã rất lớn , Trung Quốc có từ chỗ không có gì ở Biển Đông trước năm 1909 mà bây giờ, nếu như Việt Nam hoặc một số nước Đông Nam Á chấp nhận ‘gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác’ với Trung Quốc, thì Trung Quốc không mất gì cả, mà họ chỉ được. Và nên nhớ rằng, trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc, họ không bao giờ dừng lại tham vọng của họ, và họ sẽ tiến tới, được đằng chân, họ sẽ lân đằng đầu, và chúng ta biết rằng trong lịch sử phát triển ra các vùng ngoại vi của Trung Quốc, phương Nam là hướng xâm lược, hướng bành trướng thường xuyên của Trung Quốc… và nếu họ đạt được mục đích mà Việt Nam và một số nước ĐNA chấp nhận công thức của Đặng Tiểu Bình ‘gác tranh chấp, cùng khai thác’ là sập bẫy âm mưu thôn tính của Trung Quốc và họ có đầy đủ sức mạnh để lấn tới.


Việt Nam không bao giờ (được) chấp nhận một phương án cho dù bất cứ một ai, cho dù bất cứ một thế lực nào tác động, để Việt Nam chấp nhận công thức của Đặng Tiểu Bình vì như thế,   Việt Nam sẽ mất tất cả, chẳng những đã mất chủ quyền ở Hoàng Sa rồi, mà sẽ mất luôn chủ quyền ở Trường Sa, và sắp tới sẽ không còn biển để cho dân tộc Việt nhìn ra thế giới, nhìn ra tương lai để có sinh kế, tồn tại, và nếu họ nuốt trọn Biển Đông, họ sẽ không dừng lại ở khu vực đó, mà lãnh thổ Việt Nam trong nước cũng sẽ bị đe dọa bởi một quốc gia láng giềng khổng lồ nằm sát bên cạnh với đầy đủ tham vọng và âm mưu bá vương.


chính sách tuyên truyền và lập trường mới được đưa ra gần đây của Trung Quốc liên quan đàm phán về Bộ quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa nước này với các quốc gia trong khối ASEAN với ba ‘điều kiện’ được cho là cứng rắn của Bắc Kinh, mà cụ thể  là:

 🤬thứ nhất:  các bên phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông như họ đã tuyên bố.

🤬 thứ hai : không được cùng nhau khai thác với các nước ngoài khu vực mà không có ý kiến của Trung Quốc .

🤬thứ ba :không được tập trận và không được liên minh với bất cứ nước nào ở ngoài khu vực Đông Nam Á.

TQ thể hiện 1 quan điểm ngang ngược , bá đạo vô pháp với các quyền tài phán quốc tế . và thực hiện chính sách " chia để trị " chia lẻ các nước trong Asian để dễ bề thao túng bằng các chính sách kinh tế áp bức. Đồng thời đẩy mỹ ra khỏi khu vực , không cho Mỹ hậu thuẫn các chính sách đi lại hòa bình trên các vùng biển quốc tế . 


không phải cách đây 100 năm thời Việt Nam còn non yếu, thời Việt Nam còn bị xâm lược, là thuộc địa của cường quốc phương Tây, dù Việt Nam hiện nay vẫn còn là một nước nhỏ, một nước nghèo, nhưng Việt Nam vẫn có một đội ngũ nghiên cứu có chất lượng, có chất xám, để mà sẵn sàng tranh luận lại với các luận điểm đi ngược lại quyền lợi của Việt Nam, dù là quốc gia hay cộng sản mang ý thức hệ nào đó, tôi nghĩ rằng tất cả những ai mang dòng máu Việt Nam, đều bảo vệ quyền lợi chính đáng của Việt Nam hiện nay trước âm mưu thôn tính của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Hoàng Sa - Trường Sa thuộc về Việt Nam 100 trước vẫn vậy và bây giờ cho tới mai sau vẫn là  của Việt Nam


Tin tức ngày 1-8. Mỹ trói Tay Nga -Trung

 điểm tin ngày mới đầu tháng nào các bác . 

Trong hai tháng nay, Ukraine đã phải chật vật để vượt qua phòng tuyến Surovikin nhằm giải phóng vùng lãnh thổ đã bị Nga chiếm. Giao tranh đã diễn ra ác liệt, với thiệt hại về quân số cũng như trang thiết bị của hai bên đều cao. Tại phòng tuyến này, quân Nga đang núp sau các lớp chiến tuyến, với mỗi lớp cách nhau bởi mội tổ hợp mìn khoảng 120 đến 500 mét. Ngoài ra, quân Nga còn có sự hỗ trợ của pháo binh và trực thăng tấn công, đồng thời có thêm hệ thống chiến tranh điện tử và phòng không dày đặc. Tuy nhiên, quân Nga cũng gặp một số khó khăn. Theo đó, với hơn 50,000 quân ở mặt trận phía nam, quân Nga có khoảng 20% số quân có thể triển khai bất cứ lúc nào. Nhưng khi quân Nga điều quân hỗ trợ và những toán quân cần thiết để trấn giữ hai bên sườn, lớp quân dự bị sẽ bị mỏng đi. Mặt khác , Ukraine cũng có pháo binh có tầm xa hơn, chính xác hơn và nhiều hơn làm hạn chế hỏa lực phản công của Nga. Thêm vào đó, quyết định cung cấp bom chùm của Mỹ sẽ kéo dài thời gian lợi thế về pháo binh của Ukraine. Nhưng những gì  Ukraine cần để tiến hành các hoạt động tấn công thành công còn bao gồm: khả năng kỹ thuật, phòng không chiến thuật, cơ động được bảo vệ, và huấn luyện tập thể và quân nhân. Ngoài ra, chậm trễ trong việc đưa ra quyết định huấn luyện Ukraine trên xe tăng và xe chiến đấu bộ binh của phương Tây đã giúp Nga có thời gian xây lại lực lượng. Vấn đề tiếp theo đó là chương trình huấn luyện binh sĩ Ukraine được thiết kế cứng nhắc. Huấn luyện tập thể đã được tổ chức trên các cơ sở huấn luyện châu Âu cho một số đơn vị Ukraine. Tuy nhiên, quân đội Ukraine đã không thể điều khiển UAV  của họ vì những hạn chế về quy định hoặc sử dụng phần mềm điều khiển hỏa lực của riêng do các phần mềm này không được NATO chuẩn hoá . Cuối cùng, vấn đề lớn nhất là các quy định đã quá cứng nhắc trong đào tạo binh sỹ Ukraine về cách thức tiến hành chiến tranh, trong khi đó lại không có đủ thời gian để thực sự truyền tải hết được tất cả các nội dung có liên quan. Thay vào đó, các khóa học cần được điều chỉnh để khuếch đại tốt nhất các thế mạnh hiện có của Ukraine. Nhưng để làm được điều đó, cần có sự cho phép để các giảng viên được thoải mái điều chỉnh những gì được dạy và một cách tiếp cận mang tính phối hợp với người Ukraine để thiết kế khóa học , điều này đang được thay đổi tích cực bởi các khoá huấn luyện của các chuyên gia đến từ Phần Lan . vấn đề của Ucraina là phải làm sao áp chế được pháo binh nga , đẩy họ lùi vào sâu ở truyến sau , mất hỗ trợ của pháo binh thì Ucraina mới có khả năng đưa phương tiện rà phá bom mìn mở lối để bộ binh cơ giới tiến công xuyên qua được bãi mìm , bãi mìn là 1 khu vuẹc phi tiếp xúc chiến thuật , vì vậy cần 1 lượng cơ giới phá phìn cơ động , sức bảo vệ tốt . cho nên những tuần gần đây Ucraina tích cực lùng diệt các phương tiện pháo binh của nga là vậy , Ucraina không có hỗ trợ không quân mạnh nên họ chỉ còn cách đánh như vậy , đó cũng là bất đắc dĩ , nếu chỉ đơn giản chiến tranh hầm hào thì Ucraina bóp nga trong 1 nốt nhạc .

Như những nhận định từ tháng 5 của em , mọi nỗ lực của Ucraina là phải làm sao tiến đến sát bở biển Azov , cắt đôi chiến tuyến khi vực phía nam, từ đó cô lập bán đảo Crimea . Ucraina đã , đang có những bước tiến chậm nhưng chắc chắn , quân nga đang bị bào mòn đáng kể vì khả năng cứu thương kém cỏi của mình . quân trang cuả lính Nga quá thiếu các nhu yếu phẩm thuốc men cần thiết để có thể sơ cứu hay làm phẫu thuật đơn giản ngay trên chiến trường . chúng ta phải tiếp tục đợi thêm 1 ,2 tuần nữa để có thể đánh giá tiến độ tiến quân cảu Ucraina khi áp sát các tuyến phòng ngự răng rồng của Nga . cơ bản tuyến đầu tiên mới là tuyến quan trọng , nếu Ucraina vượt qua đươcc tuyến đầu , thì những tuyến sau sẽ dễ dàng hơn rất nhiều . 

Bài này em dành thời gian cho việc phân tích cách TQ hỗ trợ Nga thế nào , và liệu TQ sẽ cần Putin đến bao giờ trong bàn cờ mặc cả quyền lợi với phương tây .

Mới hôm qua Bộ thương mại TQ đã ra thông cáo  áp dụng các biện pháp xuất khẩu thiết bị UAV và các thành phần bán quân sự như thiết bị quang học , thiết bị ảnh nhiệt , radar , và các động cơ có công suất lớn hơn 16KW . điều này chứng tỏ Mỹ đã dằn mặt TQ sau hậu trường . động thái này cho thấy TQ đã chuyển đến nga 1 số lượng lớn các thiết bị dùng cho UAV và các bộ phận cấu thành 1 hệ thống vũ khí nào đó . 

Chúng ta cần phân tích xem năng lực của TQ đến đâu khi hỗ trợ Nga . hiện tại TQ cú đầy đủ nguồn lực , nhân lực và cơ sở vật chất để hỗ trợ nga cũng như cung cấp cho nga qua đường sắt xuyên biên giới . đây là 1 sự nguy hiểm khôn lường cho Ucraina khi họ đnag có lợi thế về mặt vũ khí và hoả lực trên chiến trường . TQ 1 tuần gần đây đã chuyển hàng 100 ngàn tấn thiết bị đến nga qua các dường tầu hoả xuyên biên giới . năng lực vận tải của TQ là cực mạnh , chỉ cần 1 tuần là nga đủ dùng trong vài tháng . vậy TQ đã có khả năng vì Nga mà bật lại Phương tây chưa ? TQ có tất cả mọi thứ nga cần. Nếu nó không cung cấp trực tiếp đạn hay phương tiện thì nó hoàn toàn có thể cung cấp thành phần của vũ khí nga nếu nga muốn. Nga chỉ việc lắp ráp lại. Còn nếu chơi sát ván hơn nữa. Thì ở xiberi TQ có đến 8 triệu lao động trong các nhà máy . TQ chỉ việc ném linh kiện vào đó. Công nhân TQ tự nó lắp ráp ngay trên đất nga luôn . vấn đề TQ nó can dự vào cuộc chiến này ở mức độ nào . can thiệp sâu hay là le ve bên ngoài thôi. Chứ cỡ TQ nó bơm thì chấp cả châu âu không lại với TQ . vậy cần nhìn nhận thật sự vai trò của TQ ở chiến trường Đông Âu thế nào ? nếu TQ quyết định cứu nga 1 cách công khai , thì mỹ sẽ mang đài loan Ra chính thức thách thức TQ , mỹ sẽ đầu tư mạnh tay vào Đài Loan mà không cần nhìn thái độ của TQ , vf đi xa hơn nữa , Mỹ sẽ đặt THAAD trên lãnh thổ Đài Loan , xây cảng biển ở khu vực phía nam hòn đảo này , đồn trú quân Mỹ thường trực luân phiên đến Đài Loan và cao hơn nữa là cỡi trói hoàn toàn cho Nhật Bản ( cái này bài sau phân tích ) vậy TQ làm gì để giúp Nga và thật sự TQ có muốn giúp Nga hay không ? điều này phải đi vào lịch  sử và hiện tại quan hệ Nga – TQ .

 Có lẽ là do nhận thấy hiệu quả thu được từ việc quan hệ sâu hơn với Mỹ đang giảm dần, TQ đã quay trở lại điểm xuất phát trong kỷ nguyên Putin, qua đó ủng hộ nhà lãnh đạo Nga và lên án Mỹ. Phương Tây lo lắng là đúng. Quay ngược kim đồng hồ trở về những ngày của tình anh em Trung-Xô, Putin và Tập đã dứt khoát liên minh với nhau trong việc thách thức trật tự thế giới do phương Tây dẫn đầu. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa phục thù và xâm lược quân sự của Putin với sức mạnh kinh tế của Trung Quốc là điều nguy hiểm. Nhưng Putin đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi đốt cháy cây cầu nối với phương Tây, đi đến cùng với Trung Quốc, bỏ qua lai lịch biến bạn bè thành công cụ của TQ.

Tuy TQ có cung cấp hỗ trợ ngoại giao cho cuộc xâm lược Ukraine của Putin, nhưng về cơ bản TQ tránh vi phạm các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga, và về cơ bản TQ vẫn đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Nga. Sự cô lập ngày càng nghiêm trọng của Nga đã cho phép TQ nhận được các sản phẩm năng lượng hạ giá của Nga. Hiện nay phần lớn thương mại giữa TQ và Nga được thực hiện bằng đồng Nhân dân tệ của TQ, điều làm giảm rủi ro từ áp lực kinh tế phương Tây gây ra cho Nga, nhưng cũng thúc đẩy mục tiêu của Bắc Kinh trong việc làm suy yếu sự thống trị của đồng đô-la trong vai trò đồng tiền quốc tế. Đồng thời, cùng với việc chiến tranh kéo dài, TQ đưa ra những lời kêu gọi nửa vời thực hiện hòa bình ở Ukraine, qua đó gây dựng hình ảnh một nhân tố toàn cầu có trách nhiệm trước phần lớn thế giới.   Mặt khác, Putin đã biến đất nước mình thành một đối tác bậc dưới của TQ. Trông yếu ớt và thiếu cảm giác an toàn sau cuộc nổi dậy của Wagner hồi tháng trước, Putin có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào TQ để được hỗ trợ về chính trị và kinh tế.

Chắc chắn Tập sẽ lưu ý điều đó. Như các nhà lãnh đạo TQ trước đây, Tập tôn trọng sức mạnh nhưng biết cách khai thác điểm yếu, và Nga sẽ vẫn hữu ích với ông ta  khi ông ta tiếp tục thách thức Mỹ. Putin vẫn có thể đưa ra những lựa chọn chiến lược quan trọng cho đất nước mình, miễn là chúng phù hợp với lợi ích của TQ. Nhưng liệu Trung Quốc có đứng về phía Putin nếu những lợi ích đó khác nhau? Hoặc nếu giới tinh hoa Nga hết kiên nhẫn với những quyết định sai lầm của Putin và cố hạ bệ Putin ? Hoặc nếu phí tổn toàn cầu để ủng hộ ông tỏ ra quá nặng nề đối với TQ thì sao? Câu hỏi lớn nhất về liên kết Trung-Nga là liệu nó có tồn tại lâu dài trong một môi trường địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng hay không. TQ ủng hộ Nga trong việc phản đối sự bành trướng của NATO là một chuyện, vì họ chẳng mất gì khi làm vậy. Nhưng liệu TQ có giúp Nga lẩn tránh các lệnh trừng phạt kinh tế mà nước này sẽ phải đối mặt nếu quyết định xâm lược Ukraine hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác. Nga ủng hộ TQ chống lại AUKUS – một hiệp ước quốc phòng ba bên giữa Australia, Anh, và Mỹ được công bố vào năm ngoái – cũng là một chuyện, nhưng Nga hỗ trợ TQ trong trường hợp xảy ra xung đột ở Biển Đông, hoặc Nga đứng về phía TQ trong một cuộc đụng độ với Ấn Độ, nước mà Nga vẫn duy trì mối quan hệ thân tình, lại là chuyện khác. Nga và TQ càng trở nên thân thiết, hai bên càng giả định rằng họ có thể trông cậy vào nhau trong những lúc cần kíp. Nhưng với việc sự đối đầu địa chính trị cũ đang tái xuất hiện ở châu Âu và châu Á, nhiều khả năng, chẳng bao lâu nữa, Putin và Tập sẽ nhận ra sự khó chịu của việc phải phân biệt rạch ròi giữa một mối quan hệ liên kết và một liên minh chính thức , điều là vô tình hay hữu ý sẽ làm sống lại những tranh chấp về quyền lợi – địa chính trị của mối quan hệ Nga – TQ ở khắp khu vực Nam Á , Viễn Đông và toàn khu vực Trung Á . quan hệ Nga – TQ bề ngoài là tốt nhưng bên trong nó là 1 sự đấu tranh quyền lực khu vực không ngừng , việc TQ cố tỏ ra là 1 người bạn tốt khi gần đây có những chuyến tầu vận chuyển nhu yếu phẩm và các bộ phận cảu UAV cho Nga chỉ là 1 sự việc rât nhỏ trong những tác động lớn ở chiến trường Ucraina mà phương tây đang tạo ra . có lẽ TQ biết mình đang ở đâu trong việc bắt tay với 1 nước Nga đang suy kiệt trên toàn bộ cấu trúc từ quân sự đến quyền lực chính trị trên thế giới .

Từ những năm 1970, thế giới đã tạo dựng  tam giác chiến lược để minh họa các mô hình trong quan hệ giữa Washington, Moskva và Bắc Kinh. Theo lôgích tam giác, việc củng cố các mối quan hệ Trung-Nga sẽ là một phản ứng tự nhiên trước những căng thẳng hiện tại trong quan hệ Mỹ-Nga và Mỹ-Trung. Quả thật, có rất nhiều dấu hiệu cho thấy sự củng cố quan hệ như vậy. Vào ngày 5/6/2019, Trung Quốc và Nga đã nâng cấp mối quan hệ của họ lên thành Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì một kỷ nguyên mới , tuy nhiên, những thay đổi trong môi trường bên ngoài lãnh thổ , bao gồm cả mối quan hệ của TQ  với Mỹ cũng như những diễn biến ở Trung Á và Bắc Cực, sẽ thử thách việc củng cố quan hệ đối tác Trung-Nga. Biến đổi khí hậu ở Bắc Cực sẽ mở ra những khu vực vận chuyển và đánh bắt cá mới, vốn có thể khiến Trung Quốc có khả năng hành động độc lập hơn với Nga, đặc biệt khi vùng thượng lưu Bắc Cực tan băng để có thể đi lại và TQ không còn bị giới hạn ở tuyến đường Biển Bắc do Nga quản lý. Vẫn còn phải xem xem Nga muốn hợp tác chặt chẽ với TQ ở Bắc Cực đến mức nào, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh và liệu điều này có tạo điều kiện thuận lợi cho TQ có vai trò lớn hơn trong các vấn đề Bắc Cực hay không. (  phần của bài phân tích về địa chiến lược khu vực vòng cực bắc của tôi  ở đây , các bác tham khảo để hiểu rõ hơn : https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=2435351763280614&id=100004174416553&mibextid=Nif5oz ) 

Ở Trung Á, TQ đã mở rộng danh mục an ninh của mình bằng cách thiết lập các đồn an ninh biên giới ở Tajikistan và cung cấp nhân sự cho họ. Điều này làm thay đổi sự phân công lao động không chính thức giữa hai nước – Nga mang lại an ninh và Trung Quốc thúc đẩy hợp tác kinh tế. Hiện vẫn chưa rõ liệu TQ sẽ tiếp tục mở rộng sự hiện diện an ninh ở Trung Á , và nếu vậy thì Nga sẽ phản ứng như thế nào. Nga hoàn toàn không thể làm gì để ngăn chặn TQ .

Trung Quốc vẫn là một nhà nước Cộng sản ích kỷ , tự lợi, mờ ám như thời Mao Trạch Đông, theo quan điểm của em  liên minh TQ - Nga chỉ có tính tạm thời. Không có cái gì gọi là  “tình cảm tốt đẹp”  không giới  hạn đối với TQ  , mà  chỉ có sự tính toán lạnh lùng.

Giờ đây, những nước phương Tây nào đang lo ngại về mặt trận thống nhất mới giữa Trung Quốc và Nga nên nhìn nhận rằng, không có liên minh nào cả , mà chỉ có 1 viễn cảnh , TQ nuốt Nga mà thôi . 

Bài dài quá rồi , hẹn các bác ngày mai nhé :

Bài sau :”sự nguy hiểm của quan hệ Nga – TQ với an ninh của Nga  , nước nga sẽ đối mặt với sự nguy hiểm khôn cùng từ TQ .”

# chiến _ tranh_ ucraina


Địa chính trị khu vực Châu Phi

 Địa chính trị khu vực Châu Phi . lịch sử địa lý , sự đau khổ của 1 châu lục . 

Trước tiên  chúng ta phải tìm hiểu lịch sử , cơ cấu địa lý để làm rõ các vấn đề về sắc tộc , lý giải làm sao mà Châu Phi mãi mà không thoát nghèo . tôi viết bài này ra rất công tâm , không đánh bóng cho phương tây hay cũng đổ tội cho họ . nhưng những đau khổ của người dân châu phi có phần rất lớn bởi chủ nghĩa thực dân của pháp , 1 Châu Lục của những khổ đau , bất công , Châu Phi chính là nhân chứng rõ rằng nhất trong nhiều thế kỹ về sự áp đặt về chính trị và về biên giới của các nước Châu Âu với những thuộc địa xa mẫu quốc . 

Phần 1 :Lịch sử , địa lý , sự khác biệt về phân bổ các sắc dân trên 1 vị trí địa lý phức tạp . cùng tìm hiểu ;

Tôi chỉ đi vào 1 số nước trên cả lục địa thôi , vì nêu tên hết mà nói hết thì vài ngày mới xong , cơ bản là 1 vài khu vực được xem là chiến lược với Châu Lục này  thôi ạ . 

Loài người hiện đạii đã xuất hiện ở Châu Phi khoảng 200.000 năm trước. Tuy nhiên có hàng chục nghìn năm lợi thế xuất phát so với các châu lục khác , Châu Phi lại  tụt lại xa so với châu Âu Bắc Mỹ hay Châu Á trong gần như toàn bộ lịch sử được con người ghi chép , cho đến thế kỷ thứ 19 nhiều nơi tại hạ Sahara vẫn không hề có bánh xe, người dân vẫn trao đổi hàng hóa bằng cách trao đổi vỏ sò . một số Vương Quốc nổi bật thì đa phần người châu Phi chỉ sống thành các bộ lạc , không có tổ chức nhà nước hoặc Tổ chức rất lỏng lẻo nhiều người sẽ cho rằng thực dân châu Âu là nguyên nhân duy nhất khiến cho Châu Phi nghèo đói , thế nhưng trên thực tế không chỉ có mỗi Châu Phi phải chịu cảnh thuộc địa . Mỹ từng là  thuộc địa của Anh , nhưng giờ đây lại là quốc gia số một thế giới , nhiều nước Châu Á cũng là thuộc địa của thực dân nhưng vẫn phát triển tốt . Tuy không thể phủ nhận những tác động tiêu cực của Chủ Nghĩa Thực Dân nhưng kể cả là không có bàn tay của phương tây thì châu Phi cũng rất khó để vươn lên vì những bất lợi về địa lý.

 Nếu nhìn vào bản đồ chúng ta có thể bị lầm tưởng rằng Châu Phi chỉ nhỉnh hơn đảo greenland một chút , sự lầm tưởng này là kết quả của phép chiếu Marketer khiến cho các nước càng xa vùng xích đạo thì lại trông có vẻ càng lớn  hơn , trên thực tế thì châu Phi rất khổng lồ có thể nhét vừa Mỹ, Ấn Độ , Trung Quốc và thêm một vài quốc gia châu Âu khác , tổng diện tích Châu Phi là hơn 30,4 triệu km² , tức là lớn gấp 2 lần diện tích của nước Nga , Châu Phi là châu lục lớn thứ ba thế giới sau châu Á và châu Mỹ , châu Phi thật sự vô cùng rộng lớn diện tích khổng lồ đi kèm với tài nguyên thiên nhiên dồi dào đa dạng , không gian rộng lớn là những yếu tố để phát triển các nền văn minh thế . Nhưng một loạt các yếu tố địa lý kèm theo đã khiến Châu Phi rộng lớn trở nên nhỏ hẹp và bị chia cắt , quá nhiều kiểu khí hậu  . Các vấn đề địa lý của Châu Phi không đến từ diện tích mà đến từ sự tương quan giữa chiều ngang của lãnh thổ và chiều cao . Tại Lục Địa Á - Âu và Bắc Mỹ, chiều ngang của lãnh thổ luôn lớn hơn chiều cao do khí hậu được quyết định bởi vĩ độ, nên các lục địa càng dài sẽ càng có nhiều diện tích  cùng nằm trong một kiểu thời tiết , ngược lại thì châu Phi trải dài qua nhiều vĩ độ kết quả là châu Phi  có đủ loại khí hậu từ Địa Trung Hải, gần Nhiệt Đới , cận xa sa , rồi xa van đồng cỏ , rồi rừng mưa nhiệt đới trong 1 khoảng địa lý nhỏ hẹp như vậy . Mặc dù khi nhắc đến Châu Phi thì người ta thường nghĩ ngay đến Nắng nóng nhưng một số nước Bắc Phi và ở Nam Châu Phi Thậm chí còn có tuyết rơi vào mùa đông 


trong cùng một đới khí hậu con người sẽ trồng cùng một loại cây trồng , nuôi chung một loại vật nuôi  đối mặt với những điều kiện tương tự nhau , kết quả là văn hóa ngôn ngữ tại cùng một khu vực khí hậu sẽ có những nét tương đồng , từ đó Con người có thể đoàn kết lại với nhau giúp cho việc phát triển cộng đồng được thuận lợi . Nhìn vào bản đồ phân bố các nền văn minh lớn thì có thể nhận thấy rằng , các nền văn minh thường chỉ nằm  gọn trong một đới  khí hậu . Chẳng hạn như Trung Quốc , Mỹ và Tây Âu là ôn đới ,  Ấn Độ là nhiệt đới, La Mã ứng với khí hậu địa trung hải . Ngược lại Châu Phi Mặc dù với diện tích Khổng Lồ nhưng lại không có nổi một khu vực với kiểu khí hậu  liền mạch , rộng lớn mà thay vào đó bị phân mảnh thành những dải hẹp nằm ngang và cũng không bất ngờ , khi các nền văn minh tại không có chỗ để phát triển và xung đột giữa các cuộc sống thì luôn diễn ra. 


Châu Phi có biển bao quanh nhưng nó lại là 1 nhà tù giam giữ không gian địa lý của châu lục này người Châu Âu ở thế kỹ 15 đã cố gắng tiếp cận Châu Phi từ phía Đại Tây Dương , họ phát hiện ra rằng lục địa này không có nhiều cảng để Neo Đậu tàu thuyền , khác với châu Âu hay Bắc Mỹ nơi có những đường bờ biển dựng đứng trở thành những cảng nước sâu tự nhiên lớn . Bờ biển của châu Phi lại thoai thoải khiến việc xây dựng các cảng biển trở nên vô cùng khó khăn , vào thế kỷ thứ 15 với công nghệ hàng hải vượt trội hơn nhiều so với Châu Phi thì người châu Âu cũng chỉ có thể di chuyển vào sâu trong lục địa khoảng 150 km mà thôi Điều này là do địa hình hiểm trở và các con sông rất nhiều thác ghềnh , do đó việc giao thương và đường thủy từ sông ra biển hay từ biển vào sông là rất khó khăn .


Đau khổ hoưn cả là các nước châu âu đã thực hiện chính sách thực dân hà khắc  lên các vừng đất Châu Phi . Những kẻ thực dân đã dồn người dân Châu Phi vào trong những đường biên giới ngẫu nhiên , Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh cũng là nạn nhân của Kiểu phân chia biên giới này, những biên giới này được vẽ ra do các đoàn thám hiểm , chiến tranh giữa các nước phương Tây hay chỉ là một kết quả của một quyết định chóng vánh tại một thủ đô ở một nước châu Âu nào đó, mà không hề tính đến điều kiện thiên nhiên khí hậu và văn hóa bản xứ, kết quả là các bộ lạc có kiểu sống sa mạc có thể cùng với các bộ lạc sống trong rừng nhiệt đới kết hợp lại thành một quốc gia, và sự phân chia này đã dẫn đến sự bất ổn trong nội bộ của nhiều nước châu Phi, điều đó đã dẫn đến nội chiến xung đột sắc tộc , những chuyện này xảy ra ở gần như mọi quốc gia châu Phi kể từ thời kỳ thuộc địa, các quốc gia tại Trung Phi với đa dạng sắc tộc cũng là khu vực nhiều bất ổn sắc tộc nhất của thế giới, những nước thành công phát triển hơn phần còn lại của châu phi thường có biên giới được phân chia theo cách tự nhiên , Trung Phi  với một kiểu khí hậu của văn hóa ethiopia , Ai Cập đều là những quốc gia có lịch sử lâu đời trong khi Nam Phi nằm trong một đới khí hậu và có  số lượng sắc tộc không nhiều  nên ổn định hơn nhiều . Và một yếu tố địa lý nữa không thể không nhắc đến Đó chính là nhiệt độ phần lớn Châu Phi đều có nền nhiệt rất cao ,  cao hơn các châu lục khác nhiệt cao khiến con người làm việc vất vả hơn năng suất kém hiệu quả hơn nếu so với các nước lạnh thêm vào đó việc dễ dàng tìm được thức ăn từ thiên nhiên khiến cho người châu Phi không hình thành nên nếp sống phải tiết kiệm hay tích trữ thức ăn cho những lúc khó khăn.


Ta tạm dừng vấn đề và địa lý , chuyển sang vấn đề chủ nghĩa thực dân đối với sự phát triển và địa chính trị châu phi .

 Điểm qua 1 số nước chủ chốt ở Châu Phi và tài nguyên của họ :


Nigeria : Là nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô hàng đầu ở Châu Phi. Đồng thời, nó là Nhà sản xuất Dầu thứ năm trên thế giới trong khối OPEC. Do đó, dầu mỏ đại diện cho 40% tổng sản phẩm quốc nội của đất nước. Họ cũng có các tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác khác như khí đốt, than đá, vàng và bôxít.

Botswana : Nhà sản xuất kim cương hàng đầu thế giới (theo giá trị), phần lớn trong số đó là chất lượng đá quý, sở hữu 35% kim cương châu Phi. Bên cạnh những viên kim cương này, vàng, niken, tro soda và đồng được khai thác ở đó.

 Nam Phi : Đây là một quốc gia có tiềm năng khoáng sản rất lớn, đa dạng, đáng chú ý là số một thế giới về sản xuất crom, mangan, bạch kim, vanadi, vermiculit, và số hai về sản xuất ilmenit, palladium, rutil và zirconi.

Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC) : Mọi điện thoại di động trên thế giới đều chứa coltan và DRC là nhà sản xuất lớn nhất thế giới. Đây là một trong những nhà sản xuất kim cương và đồng khổng lồ ở châu Phi, với lần lượt là 34 và 13% tổng sản lượng của lục địa này. Các mỏ khoáng sản ước tính khoảng 24 nghìn tỷ đô la.

Namibia : Một phần tư thu nhập hàng năm đến từ uranium. Ngành công nghiệp khai thác đa dạng đang trên đà phát triển, với doanh thu đáng kể tăng lên hàng năm.

Có thể thấy , từ thế kỹ 15 đến nay , Châu Phi liên tục được coi như 1 thuộc địa tàu nguyên chủ chốt cho toàn bộ Châu Âu và Phương tây . 1 trong những nước vẫn duy trì quyền mẫu quốc với các quốc gia Châu Phi là nước Pháp . Tôi Sẽ đi sát vào phân tích sự độc ác của Pháp ở đây thêm vào các yếu tố Trung Quốc và Nga để cho thấy tầm chiến lược của khu vực Châu Phi đến Thế giới .

Niger tất nhiên cũng có ý nghĩa chiến lược. Mặc dù có thể dễ dàng coi đây là một quốc gia không giáp biển và nghèo khó ở giữa sa mạc, Niger có một nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng, bao gồm uranium, than, vàng, quặng sắt, thiếc, dầu mỏ, molypden, muối và thạch cao. Nguồn cung uranium của nước này thuộc hàng lớn nhất thế giới, điều này cực kỳ quan trọng đối với năng lượng hạt nhân. Chính vì lý do này mà Pháp không sẵn sàng từ bỏ Niger mà không chiến đấu, và một cuộc xung đột ủy nhiệm tiềm tàng có thể xuất hiện. Nếu các lợi ích được phương Tây hậu thuẫn ở nước này bị đánh bại, tổn thất chiến lược của Niger về các nguồn lực mà nước này nắm giữ sẽ rất lớn, và rất có khả năng Trung Quốc sẽ giành được lợi thế so với phương Tây trong quá trình này.

Vấn đề là cái nước Niger này nằm giữa tuyến đường ống dẫn khí đốt dự kiến sắp được xây dựng từ Nigeria đi qua Niger tới Algeria rồi từ đó chuyển khí đốt sang Châu Âu thay cho nguồn cung từ Nga. Bây giờ  Nga giật dây bọn tướng Niger làm phản là để phá cái đường ống này khiến Châu Âu phải tiếp tục lệ thuộc khí đốt Nga trong tương lai nên bọn Châu Âu nó sẵn sàng chơi khô máu trong vụ này luôn ( xem bản đồ đường ống khí đốt ở hình số 3 ) , hơn nữa , Mỹ hiện có 1 đường ống dầu mỏ , khí đốt rất lớn từ libya chạy qua biển địa trung hải sang Thổ Nhĩ Kỳ , đây là 1 dự án lớn , năm ngoái Mỹ đã cấp tín dụng cho châu phi và dự án này mức chi phí ban đầu đã 5 tỷ đô la mỹ , với sự bảo kê về tài chính của Mỹ , bất kỳ 1 thế lực ngoài khu vực nào vào đây mỹ đều xem như 1 đối thủ thực sự , ảnh hưởng đến lợi ích chiến lược về năng lượng và tài chính với các công ty Mỹ . 

Bỏ qua những vấn đề khác , ta quay lại với nước Pháp , vì sao nói , nếu không có châu phi , nước Pháp sẽ mất vị thế trên toàn cầu ? Cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac nói: “Nếu không có châu Phi, nước Pháp sẽ trượt xuống thứ hạng của thế giới thứ ba”. Trước đó, năm 1957, tiền nhiệm của Chirac là François Mitterrand cũng đã tiên đoán rằng: “Nếu không có châu Phi, Pháp sẽ không có lịch sử trong thế kỷ XXI”

Pháp đúng nghĩa là 1 thực dân kiểu mới ở Châu Phi , bằng cách tạo ra đồng tiền chung , thuộc sự quản lý của ngân hàng Pháp , Pháp đã trót chặt 14 nước Châu phi vào vòng tay tài chính của mình , kiểm soát 200 triệu dân Châu phi ,  chủ nghĩa thực dân kiểu mới thật tàn nhẫn độc ác và độc nhất đến nỗi nó cũng nhận được cái tên nước Pháp ở Châu Phi , mặc dù vậy chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến mọi thứ thay đổi  , pháp gia nhập hệ thống tiền tệ và kết quả là đồng Franc  của Pháp  bị phá giá để thiết lập tỷ giá hối đoái cố định với đồng đô la Mỹ , những cải cách tài chính này diễn ra vào đúng thời điểm mà Châu Phi đã nổ ra các phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ , để giữ vững vị trí của mình tại Châu Phi Pháp đã tạo ra một loại tiền tệ mới vào năm 1945 được gọi là đồng France CFA , Pháp đã ép các quốc gia Châu Phi phải dùng đồng tiền này  , được trao đổi với đồng tiền pháp với tỷ lệ 1,7/1 thế nhưng vào năm 1948 tỷ lệ này đã được tăng lên thành 2/1 bằng việc định giá quá cao đồng tiền này , Pháp đã đè bẹp năng lực xuất khẩu của Châu Phi , Pháp đã nhanh chóng phục hồi lại nền kinh tế sau thế chiến bằng 1 phần không nhỏ từ việc bóc lột của cải của Châu Phi . 

 nhóm 14 nước Châu Phi thuộc địa được chia thành hai cộng đồng tiền tệ tài chính riêng biệt thứ nhất là liên hiệp kinh tế tiền tệ Tây Phi với đồng tiền cộng đồng tài chính châu phi ( UEMOA ) bao gồm 8 quốc gia và cộng đồng kinh tế , tiền tệ trung phi ( CEMAC) với đồng tiền hợp tác trung phi có mã số là X A F gồm 6 thành viên . 

từ năm 1961 đến nay , pháp duy trì cái gọi là “ thuế thuộc địa” với các quốc gia Châu Phi . trao trả quyền độc lập cho họ nhưng bắt phải ký các hiệp ước manh tính bất công ràng buộc , với những điều khoản rất tai hại cho các nước Châu Phi . Một Hiệp ước thuộc địa, quy định phải nộp 85% ngân sách dự trữ của họ vào ngân hàng trung ương Pháp, dưới sự kiểm soát của Bộ trưởng Tài chính Pháp. Cho đến nay, năm 2023, Togo và 13 nước châu Phi khác vẫn phải trả nợ thực dân cho Pháp.

Hiệp ước thuộc địa mà Pháp áp đặt lên châu Phi để làm điều kiện “trao trả độc lập” cho họ:

Hoàn trả chi phí “xây dựng thuộc địa” vì lợi ích của thực dân Pháp 

Các quốc gia mới “độc lập” phải trả tiền cho cơ sở hạ tầng do Pháp xây dựng trong thời kỳ khai thác thuộc địa.

Tự động thu nộp dự trữ quốc gia  .Các nước châu Phi bị buộc phải gửi dự trữ tiền tệ quốc gia của họ vào ngân hàng trung ương Pháp, gồm 14 quốc gia châu Phi vẫn bị khống chế kể từ năm 1961: Benin, Burkina Faso, Guinea-Bissau, Bờ Biển Ngà, Mali, Niger, Senegal, Togo, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Congo-Brazzaville, Guinea Xích đạo và Gabon.

Nước Pháp thường xuyên nắm giữ gần 500 tỷ đô la tiền của các nước châu Phi nói trên trong kho bạc của mình, Các nước châu Phi không có quyền tiếp cận số tiền đó của mình, Pháp cho phép họ chỉ được sử dụng 15% số tiền trong bất kỳ năm nào. Nếu họ cần nhiều hơn thế, họ phải vay thêm từ chính tiền của mình trong Kho bạc Pháp với lãi suất thương mại. Pháp áp đặt một giới hạn về số tiền mà các nước có thể vay thêm từ dự trữ của mình. Mức trần được ấn định ở mức 20% GDP của họ trong năm trước. Nếu các nước cần vay hơn 20% tiền của họ, Pháp có quyền phủ quyết.

Pháp có quyền phủ quyết về việc khai thác, sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào mới được phát hiện ở các nước châu Phi:

Pháp có quyền là người đầu tiên được mua bất kỳ tài nguyên thiên nhiên nào được tìm thấy trong vùng đất thuộc địa cũ của nó. Chỉ sau khi Pháp nói: “Tôi không quan tâm”, thì các nước châu Phi mới được phép tìm kiếm các đối tác khác.Ưu tiên các lợi ích của các công ty Pháp trong mua sắm công khai và đấu thầu công khai:

Việc bắt buộc các nước Châu Phi phải dùng đồng tiền FCFA thuộc bộ tài chính Pháp , đã làm chảy máu ngoại tệ mỗi năm 40 tỷ đô của các quốc gia trên . quả là tàn nhẫn .

Các nước châu Phi không được phép tham gia liên minh quân sự với bất kỳ quốc gia nào khác, trừ khi được Pháp ủy quyền .Pháp cấm các nước thuộc địa cũ của mình tìm kiếm bất kỳ liên minh quân sự nào khác, ngoại trừ một liên minh do Pháp lập ra cho họ.Nghĩa vụ trở thành đồng minh với Pháp khi có chiến tranh hoặc khủng hoảng toàn cầu:

Hơn một triệu lính châu Phi đã chiến đấu, đem lại sự thất bại của chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa phát xít trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nước Pháp chưa bao giờ nhớ đến họ .


Thế kỹ 21 đã đi qua gần 1/3 chặng đường , ở Châu Phi , mọi thứ vẫn vậy , thật bi thảm , nhân tố Trung Quốc và Nga đã đến , nước pháp cần làm gì ? đối thủ mới cảu pháp , Trung Quốc và Nga .

Tại diễn đàn Hợp tác Châu Phi – Trung Quốc ở Addis-Abeda năm 2003 nhằm xác định một kế hoạch hành động giai đoạn 2004-2006, Bắc Kinh đã quyết định xóa nợ cho 31 quốc gia với tổng trị giá 10,5 tỷ nhân dân tệ.

Sự hữu hảo và hào phóng này của Trung Quốc đối với châu Phi không phải là mới mà đã có từ hơn nửa thế kỷ qua, ngay từ sau hội nghị Phong trào các nước không liên kết Bandung năm 1955, tại Indonesia. Các chính sách đối ngoại của Trung Quốc với châu Phi thay đổi theo từng mục tiêu chính trị : đi từ quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương, đối tác mới...

ngay từ những năm 2000, với chính sách « Going Global Strategy », Trung Quốc  đã thắt chặt hơn nữa quan hệ hợp tác với nhiều nước châu Phi. Sự hiện diện của Trung Quốc tại đây ngày càng đông đảo và mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực đi từ kinh tế cho đến cả chính trị đặc biệt trong quốc phòng. Đất nước 1,3 tỷ người này không có nguồn tài nguyên thiên nhiên, chỉ có 7% đất canh tác và gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung ứng nước. Do vậy, Trung Quốc cần bảo đảm an ninh, an ninh về các nguồn cung ứng, an ninh trong xuất khẩu và thậm chí cả an ninh về nguồn nhân lực được xuất khẩu ra bên ngoài. Đến mức Trung Quốc cần có quan hệ địa chiến lược với châu Phi. Chính vì thế Trung Quốc đã xây dựng một căn cứ quân sự ở Djibouti và đồng thời tiến hành dự án "Một vành đai Một con đường", chạy từ Trung Á xuống châu Phi, và đặc biệt là đi qua các cảng của châu Phi cũng như là các tuyến đường sắt. Có như vậy, nếu Mỹ  quyết định phong tỏa một số eo biển quan trọng đối với thương mại quốc tế và nhất là đối với trao đổi thương mại của Trung Quốc, ví dụ như eo biển Ormuz, thì Trung Quốc sẽ không bị động.

Chính vì thế mà châu Phi nằm trong chính sách đối ngoại toan tính của các lãnh đạo ở Trung Quốc , như là một lục địa địa chiến lược quan trọng đối với vận mệnh của Trung Quốc, an ninh và tương lai lâu dài của nước này. 

Quả thực là Trung Quốc vươn lên như một cường quốc của thế kỷ 21. Do vậy, Trung Quốc cần xem xét lại mối quan hệ với lục địa châu Phi. Cần phải nói rằng các nước châu Phi cũng chờ đợi nhiều ở sự hợp tác này hơn là việc làm tái hiện một mô hình tân thuộc địa.  châu Phi nằm trong số các đồng minh mà Trung Quốc  muốn có bên cạnh họ, bởi vì 54 quốc gia châu Phi có thể luôn luôn ứng cứu Trung Quốc, như trường hợp đã từng xẩy ra, liên quan đến việc Trung Quốc được quyền trở lại tham dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25/10/1971. Trung Quốc biết rằng lục địa châu Phi có nguồn thiên phú về dân số, nguyên liệu, nhất là các mỏ quặng hiếm, vai trò địa chiến lược liên quan đến cuộc chiến chống khủng bố, cũng như quan niệm được gần như tất cả mọi người chấp nhận, theo đó thế kỷ 21 sẽ không thể phát triển mà không có châu Phi, do vậy, Trung Quốc tìm cách tạo dựng vị thế của mình tại châu Phi cũng là điều dễ hiểu 

Giờ đây, Trung Quốc nói với các nước châu Phi rằng "chúng tôi có một mô hình, thậm chí chúng tôi có cả các đối tác và tác nhân có thể tới thực hiện những gì mà các bạn muốn hợp tác với chúng tôi". Cũng đừng quên việc triển khai cơ chế tài chính cùng với Ngân Hàng Phát Triển Trung Quốc hoặc với Ngân Hàng Hạ Tầng Cơ Sở Châu Á. Đó là quyết tâm của Trung Quốc thoát ra khỏi khuôn khổ tự do thương mại mà các cường quốc phương Tây đã kiểm soát trong một thời gian dài.  Trong cái lập luận, luôn luôn được nhắc lại, theo đó Trung Quốc vẫn là một quốc gia đang phát triển, bất kể những gì người ta nói và do vậy, vị trí tự nhiên của nước này là ở bên cạnh các nước đang phát triển. Lập luận và những diễn thuyết kiểu này giúp gạt bỏ những điều kiện bắt buộc và coi các nước châu Phi là những quốc gia bình đẳng. Chính với lập luận mang tính tiếp thị này mà Trung Quốc tới giúp đỡ các nước châu Phi. Trong khi đó, cho tới lúc này, các nước phương Tây, vẫn nặng nề đầu óc chỉ đạo, không làm sao hiểu được rằng có một châu Phi đang cần vươn lên, phát triển, muốn độc lập và muốn được nói chuyện một cách tự do với các đối tác bên ngoài.

Nhưng Trung Quốc còn đáng sợ hơn cả pháp . các khoản tín dụng của Trung Quốc cấp cho các nước châu phi được tính lãi 3,5% 1 năm ( rất cao ) và được các nước vay tiền bảo hộ thế chấp bằng các mỏ tài nguyên lớn , Trường hợp của Angloga là 1 minh chứng rõ rằng cho 1 Trung Quốc tân chủ nghĩa thực dân kiểu mới , do khó trả nợ Trung Quốc, nên khoảng 63% lượng xuất khẩu dầu mỏ của nước này phải bán cho Trung Quốc, các nước nào rơi vào cái bẫy này của Trung Quốc, thì thu nhập từ xuất khẩu sụt giảm, do giá tài nguyên rớt mạnh. Cùng với Angola, Trung Quốc cũng sử dụng biện pháp này với Soudan và Conggo, các quốc gia giàu tài nguyên khác ở châu Phi.

Tại Angola, nợ bình quân đầu người đối với Trung Quốc của quốc gia 28 triệu dân này là 745 đô la. 55% nợ công của Kenya, 70% nợ của Cameroun là do Trung Quốc nắm.

hồi năm ngoái, trung bình các nước này đã phải chi 11% ngân sách quốc gia để trả nợ cho Trung Quốc , so với 4% của năm 2021. Riêng Ghana phải dành 36,2% ngân sách để trả nợ. Tình hình hiện nay được coi là rất nghiêm trọng, cho dù chưa đến mức mà các định chế tài chính quốc tế phải ra tay trợ giúp.  Các nước châu Phi sẽ phải đưa vấn đề này ra thảo luận tại Diễn đàn hợp tác Trung Quốc – Châu Phi lần thứ 7, sẽ diễn ra tại Bắc Kinh tháng 9 tới.

Trong vòng chưa đầy 20 năm, trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi tăng hơn 10 lần, đạt mức 188 tỷ đô la trong năm 2015, cao hơn ba lần so với tổng trao đổi thương mại giữa châu Phi với Ấn Độ, Pháp, và Hoa Kỳ cộng lại. Đầu tư tăng từ 1 lên đến 35 tỷ đô la và trong năm 2015, Trung Quốc đã đầu tư hơn 20 tỷ vào các dự án hạ tầng cơ sở châu Phi.

Với dự án Con Đường Tơ Lụa, Trung Quốc muốn vượt qua một giai đoạn mới trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng, xuất khẩu kỹ năng, công nghệ để khai thác các dự án cho chính Trung Quốc xây dựng. Một « kế hoạch Marshall » của Trung Quốc cho Châu Phi, nhưng kế hoạch này to lớn gấp 10 lần so với kế hoạch mà Hoa Kỳ đã giúp Châu Âu trong giai đoạn hậu Đệ Nhị Thế Chiến.

Thật sự là bi thảm cho các dân tộc Châu phi . họ liên tục bị lợi dụng , chèn ép bởi các đại cường từ Âu sang Á . Châu phi nơi ngọn nguồi của loài người , nhưng hãy nhìn , Phươn tây đã làm gì với những dân tộc này ? chủ nghĩa thực dân cả 100 năm của nó đã đào mòn sự phát triển của họ , thiên nhiên không ưu đãi , lại được ban phát độc lập 1 cách áp đặt , quả thật vùng châu lục này là những tận cùng của khổ đau , của nhưng toan tính chính trị của các đại cường thế giới . lối đi nào cho các dân tộc ở Châu Phi ?. thật sự khó . gọi Châu Phi là lục địa của nước mắt , khổ đau quả là không sai …

Còn Nga ở Châu Phi thì sao ?  sẽ có ở bài sau , dài quá rồi , hẹn các bác ở ngày mai …


Israel không được phép nương tay.

  Tôi không có thói quen quy chụp tôn giáo này tàn ác, dân tộc kia ngu muội. Ta được học tư duy biện chứng, được dạy biến đổi về lượng-chất....