HÀ Nội đi dự với tư cách khách mời trong khuôn khổ là 1 khách mời không đại diện cho 1 tổ chức hay 1 nhóm nước trong khu vực. Điều này có thể thấy tầm quan trọng của Hà Nội trong các chiến lược Tổng thể của các cường quốc thế giới.
G-7 lần này họp nhằm tăng cường nỗ lực quản trị toàn cầu từ khí hậu. Kinh tế vĩ mô đến an ninh năng lượng, an ninh khu vực Châu Âu, Đông Bắc Á, Biển Đông, eo biển Đài Loan , cuộc chiến ở Ucraina và theo tôi, quan trọng với Việt Nam nhất đó là cấu trúc hoá lại chuỗi cũng ứng toàn cầu. và cụộc gặp bên lề Mỹ -Việt hẹn về quan hệ đối tác Việt – Mỹ vào tháng 7 tới . Thượng đỉnh G-7 mở rộng có sự góp mặt của Việt Nam tất nhiên không có Trung quốc . hiển nhiên rồi Trung Quốc là đối thủ địa chính trị , an ninh , và đối thủ kinh tế lớn nhất của các nước có nền mình tế phát triển ( G-7 )
.
Thời vận của Việt Nam . Bỏ qua tất cả các vấn đề an ninh của Ucraina tôi chỉ đề cập đến Việt Nam với tư cách khách mời đặc biệt . vấn đề tôi quan tâm trọng điểm là Nhật – Mỹ đã nêu ra trong công bố chung rằng , phải cấu trúc lại chuỗi cung ứng toàn cầu . điều này trực tiếp hướng đến Trung Quốc , 1 đại công xưởng của thế giới . Các chiến lược đề ra gồm những bước cụ thể như sau :
1 :Tái cấu trúc lại chuỗi cung ứng và dòng chảy thương mại toàn cầu , trọng tâm là xê dịch các nguồn lực ra khỏi Trung Quốc , tập trung vào khu vực Mỹ Là tinh , Ấn Độ , Việt Nam và singgapore .
2 : Đánh giá lại việc nổi lên của Trung Quốc ảnh hưởng thế nào đến các quốc gia hàng xóm về vấn đề kinh tế và chính trị .
3 : Nhìn nhận Trung Quốc là quốc gia thao túng các công ty vốn nước ngoài và sự can dự của đảng cộng sản Trung Quốc trong các thoả thuận thương mại và sự bảo hộ bất bình đẳng giữa công ty Trung Quốc và các cty nước ngoài .
4 : Sự can dự mang tính ép buộc trong cách thức quản lý của chính quyền Trung Quốc với các cty nước ngoài và nạn cưỡng ép chuyển giao công nghệ và ăn cắp bí quyết quản trị , kinh doanh của các cty nước ngoài phải được ngăn chặn .
Sự tháo chạy không dấu diếm của các công ty châu Âu , Mỹ và Hàn Quốc và vấn đề thoái vốn ở thị trường Trung Quốc đang diễn ra nhanh chóng kể từ 2020 đang ngày 1 lớn , lần này sẽ mạnh mẽ hơn khi Mỹ - Nhật cùng dương cao ngọn cờ kêu gọi các công ty , đồng minh hỗ trợ cách doanh nghiệp chuyển hướng kinh doanh sang những quốc gia khác có nền kinh tế cỡ mở hơn . điển hình là Campuchia , Ấn độ, Việt Nam và Mỹ La Tinh . điều này phải diễn ra vì nó đã đến lúc diễn ra , giá nhân công Trung Quốc không còn rẻ nữa , từ năm 1990 đến giờ giá nhân công Trung Quốc trong các nhà máy đa quốc gia đã tăng 12 lần , sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc trong 40 năm của Trung Quốc đã làm cho mức sống của người dân tăng lên rất nhanh . làm giảm đi sức cạnh tranh hàng hoá và lợi nhuận cty giảm sút , Ấn Độ và Việt Nam đang là đích đến lý tưởng cho sự chuyển dịch này . Ấn Độ sẽ trở thành nước đông dân nhất hành tinh vào năm 2024 . và Việt Nam đang là 1 đất nước với dân số trẻ lớn nhất khu vực Đông Nam Á . các cuộc họp cấp bộ trưởng và các chuyến thăm đến Châu Âu của các lãnh đạo Việt Nam đều xuất phát từ mục đích kêu gọi đầu tư này . Việt Nam hứa tăng cường minh bạch trong nền kinh tế FDI , đầu tư mạnh tay vào cơ sở hạ tầng đường bộ và các cảng biển , các đại công xưởng đang được thảo luận dự án đến 2030 .
Việc G-7 chung tay cấm các công nghệ cao vào nền công nghiệp Trung Quốc cho thấy , G-7 đang đưa trung quốc vào bẫy thu nhập trung bình , kìm hãm sự phát triển tự chủ về mặt công nghệ của Trung Quốc , cái bẫy này nó thế nào ? đa số các quốc gia thế giới khi chạm đến ngưỡng thu nhập trung bình cao thì tốc độ tăng trưởng chậm dần, nhiều bất ổn kinh tế xuất hiện mang tính cơ cấu rất khó giải quyết dứt điểm, trong khi lại phải đối mặt với nhiều vấn đề về già hoá dân số, an sinh xã hội, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên , Trung Quốc quốc gia có thời gian tăng trưởng nhanh và sớm nhanh chóng đạt tới ngưỡng thu nhập trung bình ,Khi mức lương của người lao động ở Trung Quốc đang phát triển tăng lên, các nhà sản xuất thường cho rằng họ không thể cạnh tranh với những nhà sản xuất có giá thành sản phẩm thấp hơn trong thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng nhận thấy rằng bản thân mình không có công nghệ tốt nhất, công nghệ lõi như ở các nước đã phát triển để cãi thiện mô hình sản xuất .Đó chính là bẫy thu nhập trung bình mà G-7 hướng đến Trung Quốc .
Trung quốc biết điều đó , và chính sách của Trung Quốc trong tình huống này là cấp tín dụng và xuất khẩu công nghệ lạc hậu cho các quốc gia kém phát triển hơn .tìm kiếm những khoản tín dụng với lãi suất cao từ những dự án xuyên biên giới đặc biệt ở khu vực trung Á , và mỹ La Tinh .
Nước mỹ có còn là nền kinh tế mang tính dẫn dắt hay không ?
Trong 30 năm qua nền kinh tế Hoà Kỳ có những bước tiến rất xa nhưng ít người để ý , có thể thấy trong các báo cáo của các tổ chức tài chính như sau :
Năm 1990, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ chiếm 25% tổng sản phẩm của thế giới. Bất chấp sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ vẫn chiếm 25% sản lượng kinh tế thế giới.
So với các đối tác của mình trong G-7, một nhóm bao gồm Nhật Bản và Đức, thị phần của Mỹ đang tăng lên. Được điều chỉnh theo sức mua, Mỹ chiếm 51% GDP của G-7, tăng từ 43% vào năm 1990.
Thu nhập bình quân đầu người của Mỹ cao hơn 24% so với Tây Âu vào năm 1990. Hiện nay, con số này cao hơn 30%.
Từ năm 1990 đến năm 2022, năng suất lao động (sản lượng mỗi giờ làm việc) đã tăng 67% ở Mỹ, 55% ở Châu Âu và 51% ở Nhật Bản , ở Trung Quốc là 43 %
Chi tiêu của Mỹ cho nghiên cứu và phát triển đã tăng trong thập kỷ qua lên 3,5% GDP, vượt xa hầu hết các quốc gia.
Mỹ chi cho giáo dục trên mỗi học sinh nhiều hơn 37% so với 23 quốc gia giàu có khác trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – và 34% người Mỹ đã hoàn thành giáo dục đại học, một tỷ lệ chỉ Singapore vượt qua.
Sự nắm bắt công nghệ mang lại cho Mỹ sức sống liên tục cho cơ cấu sản xuất trong nước , điều này mang lại cho mỹ lợi thế và mặt tự chủ và vững bước thoát xa khỏi bẫy thu nhập trung bình mà Trung Quốc đang đau đầu giải quyết .
Nhưng kinh tế đi liền chính trị , liệu Việt Nam đã sẵn sàng cho 1 mối quan hệ cấp cao hơn với Mỹ chưa ? quan hệ Mỹ - Việt chưa bao giờ thoát khỏi ánh mắt hoài nghi về mặt chiến lược chính trị đối với Bắc Kinh .
Mấy năm qua, tuy quan hệ Mỹ-Việt đã có những bước tiến dài, nhưng phải đặt quan hệ song phương trong bối cảnh an ninh khu vực và bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung. Không phải ngẫu nhiên mà tàu sân bay Mỹ đã đến thăm Đà Nẵng hai lần, và Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam hai tàu tuần duyên lớp Hamilton, nhằm nâng cao năng lực hàng hải. Đó mới chỉ là bước đầu. Vai trò trung tâm của ASEAN và vai trò trụ cột của “Bộ Tứ” (Quad) ngày càng quan trọng trong cơ chế an ninh khu vực, theo tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Đó là bối cảnh chuyến thăm Singapore và Việt Nam của phó tổng thống Kamala Harris trong tháng 8, tiếp theo chuyến thăm của bộ trưởng quốc phòng Lloyd Austin tới Singapore, Việt Nam, và Philippines cuối tháng 7 năm ngoái , nhấn mạnh cách yếu tố quan trọng trong chuỗi hành động của Mỹ ở khu vực Ấ Độ Dương , các nội dung trong cuộc viến thăm này như :
Một là nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác toàn diện và đối tác chiến lược trong chính sách đối ngoại của chính quyền Biden. Hai là cam kết của Mỹ đối với nỗ lực thúc đẩy an ninh khu vực. Ba là quan hệ đối tác giữa Mỹ và các nước ASEAN. Bốn là bảo vệ những giá trị của Mỹ. Ưu tiên việc xây dựng lại các quan hệ đối tác để đảm bảo an ninh cho Mỹ, và an toàn bền vững cho chuỗi cung ứng. Tìm giải pháp để tránh bị thiếu hụt là ưu tiên chính của chuyến đi này. Việc thiếu hụt chất bán dẫn trên thế giới và khó khăn về chuỗi cung ứng là trọng tâm của bà Harris trong chuyến thăm Đông Nam Á, nơi Mỹ phải tăng cường quan hệ với các nước láng giềng của Trung Quốc. Việc thiếu hụt chất bán dẫn toàn cầu tiếp tục làm trì trệ các ngành sản xuất điện tử. Nhà Trắng đang thảo luận khả năng ký một hiệp định thương mại tự do về công nghệ số với các nước khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương gồm Singapore và Việt Nam. Singapore sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất điện thoại thông minh trị giá 4 tỷ USD dự kiến sẽ vận hành vào năm 2023, trong khi Việt Nam có vai trò ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng khi nhiều công ty đã chuyển dây chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Mỹ đang tạo ra mức độ Ưu tiên lớn trong quan hệ với Hà Nội , bất chấp cán cân thương mại Mỹ - Việt đang trên đà thâm hụt mạnh trong 4 năm gần đây .
Hà nội làm gì với những hợp tác an ninh – kinh tế với mỹ ? có cần nâng cấp quan hệ hay không , và thời điểm nào ? rất khó để hình dung viễn cảnh này nhưng nó sẽ phải sẩy ra bằng 1 cách nào đó không gây khó chịu cho Bắc Kinh Việt Nam có thể hợp tác với Mỹ mà không sợ bị ép buộc phải chọn phe giữa các nước lớn (như Mỹ và Trung Quốc). Nói cách khác, Washington không nên và không thể tác động vào quyết sách của Hà Nội, cho đến khi nào Hà Nội thấy đã đến lúc chín muồi để tự điều chỉnh chiến lược.
Chuyến thăm Việt Nam của ông Austin tuy không được báo chí đưa tin nhiều, nhưng không kém phần quan trọng. Trong khi thâm hụt thương mại Mỹ-Việt ngày càng tăng (69,7 tỷ đô la năm 2021), thì chương trình hợp tác quốc phòng trở thành một trụ cột chính trong quan hệ Mỹ-Việt. Việt Nam ngày càng quan trọng đối với Mỹ, và Hà Nội cũng như Singapore đang trở thành các mỏ neo trong chính sách của Mỹ.
Trong khi bờ biển Việt Nam dài hơn 3.000km giáp Biển Đông và án ngữ lối ra Biển Đông của Trung Quốc, thì Singapore án ngữ eo biển Malacca là yết hầu nối Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Singapore là nước ASEAN duy nhất cho Mỹ sử dụng căn cứ hải quân (Changi), gia hạn 15 năm (đến 2035), trong khi căn cứ hải quân Cam Ranh của Việt Nam được các nước lớn chú ý vì vị trí chiến lược trọng yếu tại Biển Đông.
Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ bán cho Singapore 12 máy bay chiến đấu F-35B (thế hệ mới) như một ưu tiên đặc biệt. Singapore là nước ASEAN đầu tiên có máy bay F-35B (trước đây đã mua F-15 và F-16). Nếu Mỹ quyết định thành lập “hạm đội 1” như đề xuất của bộ trưởng hải quân Mỹ để tăng cường lực lượng cho hạm đội 7 và hạm đội 5 tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, thì Singapore sẽ là một lựa chọn cho căn cứ của hạm đội mới. Nói cách khác, Singapore và Việt Nam đều rất quan trọng, cả về chiến lược và thương mại. Hợp tác Mỹ-Việt không chỉ về an ninh quốc phòng (như tàu sân bay Mỹ đến thăm Việt Nam hai lần, Mỹ chuyển giao hai tàu tuần duyên cho Việt Nam để nâng cao năng lực hàng hải), mà còn về y tế (Mỹ viện trợ vaccine và giúp Việt Nam công nghệ sản xuất vaccine), khắc phục hậu quả chiến tranh (như phá bom mìn, tẩy rửa chất độc da cam, tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh), đối phó với biến đổi khí hậu (đang diễn ra tại lưu vực sông Mekong), về thương mại (như rút Việt Nam khỏi danh sách bị Mỹ cáo buộc thao túng tiền tệ ). đây là những bước đi có thể nói là nhún nhường và ưu ái rất trọng thị với Hà Nội . Khi quan hệ Mỹ-Trung càng xấu đi, thì quan hệ Mỹ-Việt càng tốt lên, làm quan hệ Trung-Việt càng nhạy cảm. Việt Nam cũng như các nước khu vực không muốn chọn phe vì ba lo ngại chính. Một là Trung quốc có thể trả đũa làm cho họ thiệt hại hơn là được lợi từ Mỹ. Hai là Mỹ có thể bỏ rơi họ để bắt tay với Trung Quốc như bài học trong quá khứ. Ba là Mỹ có thể tìm cách diễn biến làm cho họ phải thay đổi chế độ ( điều này là không thể thương thuyết với Hà Nội dưới bất kỳ hình thức nào )
Chúng ta còn nhớ ,trong buổi lễ đón Tết Nguyên Đán năm 2011 được tổ chức tại Washington, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ khi đó là Lê Công Phụng đã khiến khách mời trong đêm đó phải ngạc nhiên khi tuyên bố rằng hai nước sẽ nâng quan hệ lên mức “đối tác chiến lược.” Tất nhiên, các cụm từ mô tả quan hệ đối tác thường rất mơ hồ. Nhưng từ những gì chúng ta biết về ngoại giao Việt Nam, định nghĩa của Hà Nội về quan hệ đối tác chiến lược không chỉ là những từ ngữ sáo rỗng, mà còn biểu hiện những lợi ích chiến lược cụ thể, hai bên cùng có lợi, và mang tính dài hạn. Tuy nhiên, các quan chức Việt Nam đã không hiện thực hóa tuyên bố đáng chú ý của ông Phụng. Thay vào đó, Washington và Hà Nội lại công bố quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013 – một mối quan hệ có hàm ý về một liên kết địa chính trị ít quan trọng hơn đối với Việt Nam. Người Mỹ đã tự hỏi tại sao lại vậy ?
Chính quyền Biden và ít nhất là hai chính quyền tiền nhiệm tin chắc rằng quan hệ Việt-Mỹ cần được tăng cường, chính xác là vì cả hai nước đều có chung lợi ích chiến lược dài hạn. Cả hai đều muốn ngăn chặn Trung Quốc thống trị Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương; và cả hai đều có lợi ích lớn trong việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Trong Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời năm 2021, chính quyền Biden đã đề cập đến Việt Nam cùng với Singapore, một đồng minh trên thực tế của Mỹ ở Đông Nam Á, tuyên bố rằng cả hai nước sẽ giúp “thúc đẩy các mục tiêu chung” ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trong Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương năm 2022 của chính quyền Biden, Việt Nam cũng nằm trong danh sách nổi bật gồm “các đối tác hàng đầu trong khu vực,” ngang hàng với Ấn Độ, New Zealand, Đài Loan, đây là những quốc gia được xem là mắt xích vô cùng quan trọng trong chính sách đối ngoại nửa đầu thế kỹ 21 của mỹ . Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính cho biết Hà Nội đang tìm cách đưa quan hệ “lên một tầm cao mới.” Hiện đang có nhiều đồn đoán ở Washington rằng thời cơ đã chín muồi để hai nước chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, nhiều khả năng là tại Nhà Trắng trong chuyến thăm được dự kiến của Tổng Bí THƯ Việt Nam vào tháng 7 này.
Nhưng có những lý do chính đáng khiến Việt Nam trì hoãn việc nâng cấp quan hệ lâu đến vậy và thậm chí Việt Nam có thể quyết định rằng việc nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược đơn giản là không đáng. Tất nhiên, việc làm sâu sắc quan hệ Việt-Mỹ về cơ bản không phụ thuộc vào bất kỳ cấp độ ngoại giao chính thức nào. Nhưng nếu Hà Nội từ bỏ việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Washington, điều đó sẽ xác thực quan điểm của Bắc Kinh rằng Việt Nam vẫn nằm trong quỹ đạo địa chiến lược của Trung Quốc và rằng những nỗ lực của Mỹ để khiến Việt Nam chống lại Trung Quốc không chỉ có giới hạn, mà còn vô ích. Hà Nội sẽ không muốn làm Bắc Kinh phật lòng một cách không cần thiết. Dù quan hệ đối tác với các nước khác chắc chắn là rất quan trọng để giúp Việt Nam cân bằng lại Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn nằm lòng câu nói “Nước xa không cứu được lửa gần.” Nói cách khác, Việt Nam không thể trông cậy vào các đối tác ở xa để giúp giải quyết các vấn đề với Trung Quốc. Sau cùng, chỉ có Việt Nam mới có thể đảm bảo rằng quan hệ song phương sẽ giúp tránh được khó khăn. Hà Nội có lẽ rất lo rằng việc nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược với Washington có thể tạo cho Bắc Kinh ấn tượng rằng Hà Nội đang thiết lập một liên minh quân sự, từ đó dẫn đến vi phạm “Ba không.”
Hà Nội có thể tin rằng đã xử lý mọi chuyện một cách hiệu quả mà không cần sự hỗ trợ của Washington. Sau cuộc đối đầu ở Bãi Tư Chính, Việt Nam đã công bố sách trắng quốc phòng, cam kết không bao giờ đơn phương sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chính thức chuyển sang chính sách “Bốn không” như một sự trấn an khác dành cho Bắc Kinh. Hà Nội cũng bổ sung “một tùy,” theo đó “tùy hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết, phù hợp với các nước khác.” Bằng cách bổ sung “một tùy,” Hà Nội đã vạch ra liên hệ nhân quả giữa tình hình môi trường an ninh bên ngoài của Việt Nam và các quốc gia mà họ chọn để tăng cường hợp tác quốc phòng. Cách diễn giải hợp lý ở đây là, nếu Trung Quốc tiếp tục hành vi bắt nạt tại Biển Đông, Việt Nam cuối cùng có thể nâng quan hệ với Mỹ lên mức đối tác chiến lược. Xét đến sự ổn định hiện tại, thì không có động lực để làm vậy. Nếu cách giải thích này là chính xác, thì Hà Nội sẽ nhận ra việc để ngỏ khả năng nâng cấp quan hệ sẽ hữu ích hơn là thực sự nâng cấp quan hệ. một nước đi khôn ngoan của Hà Nội , tạo ra cho mình 1 đường tiến , hoặc lùi tuỳ vào tình hình cụ thể . rất đáng hoan nghênh .tôi đánh giá rất cao sự toan tính này của Hà Nội .
Một lý do khác khiến Hà Nội chần chừ có thể là chính trị trong nước. tôi không tiện nói ra về vấn đề tế nhị này , chỉ cần biết rằng , những lãnh đạo cao cấp nhất có xu hướng thân Mỹ đã không còn tại vị trong nổ lực đốt lò của TBT Nguyễn Phú Trọng ….
Tuy nhiên, một lời giải thích rất đáng chú ý rằng vì sao Hà Nội không tiến hành nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược là bởi vì quan hệ Việt-Mỹ thực chất đã vận hành ở cấp độ chiến lược, dù không được gọi tên chính thức như vậy. Chẳng hạn, Việt Nam đã ngầm ủng hộ Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ. Trong những năm gần đây, đã nhận được thêm hỗ trợ về ngoại giao và kinh tế – cũng như trang thiết bị quân sự và huấn luyện – để đối phó với Trung Quốc. huấn luyện chung về các chiến dịch tác chiến chống lại một quốc gia thứ ba, đều có thể vi phạm “Bốn không.”
Tóm lại tháng 7 này sẽ chứng kiến sự chuyển dịch về tầm nhìn và sách lược của Việt Nam trong chính sách ngoại giao với các đại cường trong tầm nhìn đến năm 2040 . Và Trong bối cảnh đại dịch hiện nay, mọi thứ đều có thể bị đảo lộn, kể cả thói quen tư duy và hệ quy chiếu. Diễn biến càng khó lường thì quyết sách càng dễ nhầm lẫn. Vì vậy, quyết định về “đối tác chiến lược” với Mỹ đúng lúc rất hệ trọng, vì quyết định quá sớm có thể rủi ro cao, nhưng quá muộn có thể đánh mất cơ hội chiến lược cho Việt Nam định hình tầm vóc của mình trong 1 thời đại mới nhiều biến động chính trị mang tính toàn cầu , tỉnh táo nhưng phải kiên quyết để lại 1 từ “ tuỳ “ trong chính sách 4 không của mình