Nhân cuộc gặp sắp tới của bác Bảy bên mẽo sang thăm Việt Nam , em với các cụ đàm đạo tý nhỉ?
Bài viết này sẽ không đi sâu vào chính trị quan hệ 2 nước , vì cái đó em đã viết rồi , các bác tìm lại bài viết về quan hệ Việt - MỸ trong Fb của em là thấy , với lại đó là vấn đề nhậy cảm , chúng ta không được bàn sâu trên không gian mạng đặc biệt là nền tảng Facakook . nên bài này em viết có lẽ là không hay vì không được thoải mái nói ra những thứ mình cần nói nhưng những bài phân tích địa chính trị các nước khác hay châu lục khác :
Trước Khi ông Baiden đến thăm Việt Nam . Thì ít hôm Nữa TQ sẽ là nước thăm Việt Nam trước , chúng ta thấy rằng không phải đơn giản ngẫu nhiên mà TQ lại đến thăm VIệt Nam trước Khi Mỹ đến , điều này khó nói nhưng không gì khác ngoài việc TQ phát đi cảnh báo của Mình cho Hà Nội rằng “ Bắc Kinh luôn theo sát các ý đồ của Việt Nam và ….( thật sự khó nói ) “
Như bài trước em đã phân tích rất kỹ về khả năng Việt Nam và Mỹ có thể trở thành đối tác chiến lược toàn diện hay không ? điều này phụ thuộc nhiều vào tình hình chính trị khu vực , đặc biệt là tình hình trên Biển Đông và eo biển Đài Loan , 1 chử “ tuỳ “ của Việt Nam vẫn đang đợi các tiến trình của tình hình các điểm nóng ở Đông Á .
Nói qua 1 chút về vấn đề Trung Quốc và Việt Nam . các quan hệ kinh tế , địa chính trị rất đắc địa của VN ở biển đông và hệ thống phòng thủ địa lý của VN so với TQ .
Đối với TQ , Việt Nam có ý nghĩa mang tính chiến lược cao độ , đặc biệt là chiến lược về an ninh . VN gánh trên vai áp lực to lớn về sức nặng tổng thể quốc gia của TQ trên cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng , sức nặng của Trung Quốc là vấn đề Việt Nam nếu muốn cũng không thể làm được gì để thay đổi thực tế này , vì vậy cũng giống như Cuba đối với Mỹ hay gruzia đối với Nga . Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài học cách chia sẻ số phận của mình với người láng giềng Trung Quốc , trong từng bước đi của lịch sử, trong thực tế một nước Trung Quốc mạnh hơn từ lâu đã là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với an ninh của Việt Nam . Việt Nam đã nằm dưới ách thống trị của các triều đại Trung Quốc suốt gần 1000 năm cho đến năm 938 sau Công Nguyên , từ thời điểm đó cho tới khi Việt Nam bị Pháp biến thành thuộc địa vào nửa sau thế kỷ 19 , Trung Quốc đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam một vài lần , bằng chứng gần đây nhất cho thấy Trung Quốc là nguồn đe dọa chính đối với Việt Nam chính là cuộc chiến tranh ngắn ngày nhưng đẫm máu mà Trung Quốc đã tiến hành dọc theo biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 , và cuộc đụng độ hải quân do Trung Quốc châm ngòi ở Biển Đông tháng 03 năm 1988 , các mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam không chỉ xuất phát từ sự gần gũi về mặt địa lý mà còn từ sự bất đối xứng về mặt sức mạnh giữa hai nước . ví dụ như Trung Quốc rộng gấp 29 lần so với Việt Nam và gấp 13 lần dân số của Việt Nam , mặc dù dân số của Việt Nam đông thứ 15 thế giới nhưng cũng chỉ tương đương với dân số một tỉnh tầm trung của Trung Quốc mà thôi , thành tích kinh tế ấn tượng của Việt Nam từ cuối những năm 1980 cũng không cho phép Việt Nam thu hẹp khoảng cách quyền lực với Trung Quốc , ngược lại cùng với quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc trong suốt 4 thập kỷ qua khoảng cách quyền lực giữa hai nước ngày càng được nới rộng , ví dụ theo dữ liệu của ngân hàng thế giới GDP của Trung Quốc tính theo đô la Mỹ hiện hành đã tăng hơn 16 lần trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến năm 2009 từ 307 tỷ đô la lên 4.985 tỷ đô la Tuy nhiên trong cùng thời gian trên GDP Việt Nam chỉ tăng 7 lần từ 16 tỷ đô la vào năm 1985 lên 97 tỷ đô la trong năm 2009 , hiện tại GDP TQ đã là 16 ,4 ngàn tỷ , và VN chỉ mới hơn 450 tỷ đô , 1 khoảng cách rất xa ,nhờ kinh tế phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được gia tăng mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đối với an ninh của Việt Nam . VN chi 1 năm 6 tỷ đô , TQ chi đến hon 250 tỷ đô ( có báo cáo nói rằng , con số thực tế TQ chi cho quốc phòng phải gâp 2 lần số trên , tức là đạt gần 500 tỷ đô )
Chi phí quân sự gia tăng của Trung Quốc được tập trung dành cho lực lượng không quân và hải quân , giúp TQ tăng cường khả năng triển khai sức mạnh quân sự ở khu vực biển Đông nơi mà Trung Quốc đang cố gắng bành trướng về chủ quyền. Bên cạnh đó quá trình chuyển đổi của Việt Nam sang một nền kinh tế thị trường lại bổ sung thêm một khía cạnh khác mà Việt Nam phải gánh chịu , đó là khả năng bị tổn thương về kinh tế ngày càng gia tăng, TQ nối lại quan hệ thương mại với Trung Quốc vào cuối những năm 1990, sản xuất trong nước của Việt Nam đã từ lâu bị đe dọa bởi hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam thông qua con đường Thương Mại chính thức lẫn buôn lậu, Ví dụ như từ đầu những năm 1990 hàng tiêu dùng Trung Quốc nhập lậu và Việt Nam quá nhiều và gây bất lợi cho sản xuất trong nước đến mức Chính phủ Việt Nam đã phải áp đặt một lệnh cấm 17 chủng loại hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Một điểm dễ bị tổn thương khác chính là tình trạng thâm hụt thương mại kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc lên tới VN nằm ở bậc thấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo số liệu của Hải quan VN vào đầu năm nay, thâm hụt thương mại của VN với Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 60,2 tỉ USD vào năm 2022 từ mức 54 tỉ USD một năm trước. Mức thâm hụt thương mại này vào năm 2008 mới là 10 tỉ USD. hơn nữa Trung Quốc đã nổi lên như là một nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm gần 1/4 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam . Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc đối với các nguyên liệu đầu vào cho một số ngành xuất khẩu chủ yếu của mình , chẳng hạn như giấy phép dệt may , đồ nội thất , trong khi đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc . Theo số liệu năm 2022 từ Tổng cục Hải quan VN thì kinh ngạch 2 chiều VN – TQ con số đó hiện là 175,6 tỉ USD, tức tăng gần 6.000 lần trong hơn ba thập niên , trong khi VN nhập khẩu của TQ đạt mức 117 , 76 tỷ đô , tăng hơn năm ngoái 6,6% tức là luôn tăng liên tục nhập siêu, Vì vậy nếu Trung Quốc quyết định ngưng trao đổi thương mại với Việt Nam vì một lý do nào đó thì thiệt hại cho nền kinh tế của Việt Nam sẽ là rất lớn , một mối quan hệ được nêu lên ở Việt Nam gần đây chính là việc các công ty Trung Quốc đã giành được đến 90% các hợp đồng EPC ( là hợp đồng thiết kế – cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng tất cả các công trình của một dự án đầu tư xây dựng) thiết kế mua sắm và xây lắp cho các dự án công nghiệp lớn của Việt Nam đặc biệt là những công trình thuộc cơ sở hạ tầng giao thông trọng điểm và các nhà máy điện than . ( cái này xin phép các bác là em không đi sâu vào nhé ,)
Các nhà thầu TQ hứa sẽ giúp đỡ bố trí vốn cho chủ đầu tư , từ các ngân hàng Trung Quốc, dù có vẻ là rẻ , nhưng trong thực tế Việt Nam đang phải trả giá đắt cho các hợp đồng này .
thứ nhất công nghệ rẻ gây ô nhiễm : các báo cáo cho thấy một số công nghệ được cung cấp bởi các công ty Trung Quốc đã bị nước ngoài đào thải hoặc cấm sử dụng từ năm 2005.
thứ hai năng lực nhà thầu Trung Quốc hạn chế : làm cho nhiều dự án chậm tiến độ ngay cả khi các dự án hoàn thành đúng thời hạn thì họ cũng để lại cho các chủ dự án những hóa đơn bảo dưỡng tốn kém.
Thứ Ba : do nhà thầu trung quốc từ chối sử dụng các sản phẩm có sẵn ở địa phương , và thay vào đó nhập khẩu mọi thứ từ Trung Quốc , kể cả những chi tiết cơ bản như bu lông ốc vít nên góp phần làm cho Thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao . Nhà thầu Trung Quốc Thậm chí không sử dụng lao động địa phương mà còn đưa lao động Trung Quốc và Việt Nam làm việc bất hợp pháp gây nên sự phản đối trong công luận Việt Nam.
Nếu Trung Quốc quyết định phát động một cuộc chiến tranh kinh tế với Việt Nam, Việt Nam sẽ gánh chịu những hậu quả rất nặng nề,tuy nhiên Việt Nam dường như có ít sự lựa chọn để xử lý tình trạng dễ bị tổn thương của mình trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc , một mặt các phản ứng Nếu có sẽ bị hạn chế bởi thực tế rằng , Việt Nam hiện phải tuân thủ các luật lệ thương mại và Đầu tư quốc tế như các quy định của tổ chức thương mại thế giới mà việt nam đã là thành viên từ đầu năm 2007 . Mặt khác Việt Nam cũng phải cảnh giác về khả năng trả đũa quy mô lớn nếu có động thái tiêu cực đối với Trung Quốc . Tất nhiên ở đây cũng không thể không kể tới các điểm tích cực . Việt Nam Hy vọng rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng cho dù không đối xứng cũng sẽ giúp làm giảm khả năng Trung Quốc tấn công quân sự Việt Nam đặc biệt là trên biển đông. ngoài ra nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận thấy hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn ít tốn kém và thuận tiện hơn so với hợp tác với doanh nghiệp của nước , khác Chính vì vậy Việt Nam vẫn luôn kiên trì hợp tác kinh tế với Trung Quốc tiếp tục cố gắng gặt hái càng nhiều lợi ích càng tốt từ nền kinh tế đang bùng nổ của người hàng xóm phương Bắc.
1 điểm đặc biệt cần phải nhận thấy rằng , địa lý chính là thứ Việt Nam trở thành đắc địa trong con mắt các đại cường thế giới .
Nhận định đầu tiên là các quốc gia không thể lựa chọn láng giềng , cụ thể Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á núi liền núi sông liền sông kể cả là biển liền biển với Trung Quốc , với vị trí án Ngữ con đường Nam Tiến cả trên bộ lẫn trên biển của Trung Quốc , Việt Nam thường là đối tượng đầu tiên mà các hoàng đế Trung Hòa muốn trừng phạt . Việt Nam từ hàng ngàn năm qua đã gánh trên vai mình sức nặng của Trung Quốc càng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng , trong suốt thời kỳ phong kiến , Trung Quốc là mối đe dọa thường trực với Việt Nam, không có sự hỗ trợ nào khác từ bên ngoài cha ông ta buộc phải vận dụng kế sách trong đế ngoài Vương chấp nhận sống chung với lũ để bảo vệ mảnh đất tổ tiên truyền lại, và giữ gìn bản sắc dân tộc trước các tham vọng bành trướng của Trung Quốc , đến kỷ nguyên công nghiệp hóa thì các thương thuyền và chiến thuyền của châu Âu có thể vươn tới mọi ngõ ngách của địa cầu , trong một khoảng thời gian ngắn Việt Nam trở thành đối tượng để nhòm ngó của thực dân phương tây ,ban đầu các nước cường quốc châu Âu quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên , sau đó vị trí chiến lược của Việt Nam ở Giao Lộ Trung Quốc xuống Đông Nam Á và từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương ngày càng trở nên quan trọng , lực kéo và lực đẩy trong hệ thống quốc tế biến Việt Nam trở thành địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và giữ hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, vướng trong bàn cờ thế đó cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước Trước thực dân phương Tây của Việt Nam Trở nên phức tạp gay go và kéo dài , ngay cả khi Việt Nam đánh đuổi được ba Cường Quốc là Nhật, Pháp và Mỹ chiến thắng không mang lại sự đảm bảo về an ninh , sau năm 1975 quan hệ việt-trung và Việt Nam Campuchia xấu đi và Việt Nam bị đe dọa uy hiếp trên ba mặt trận biên giới phía Bắc biên giới phía Tây Nam và trên biển Đông Nguyên nhân cơ bản là do Trung Quốc không chấp nhận vị thế mới của Việt Nam ở Đông Dương và ngược lại , Hà Nội không chấp nhận sự áp đặt từ phía bắc kinh , trong lúc đó Liên Xô mong muốn mở rộng hành động của mình ở Đông Nam Á tìm kiếm một chỗ đứng chân để theo dõi các diễn biến ở Châu Á Thái Bình Dương , tình thế đó đầy Việt Nam đi đến Liên Minh với Liên Xô để kiềm chế Trung Quốc kết quả là Việt Nam Dấn Thân Vào chiến tranh ở Campuchia và xung đột với Trung Quốc kéo dài hơn một thập kỷ , lịch sử cho thấy với vị trí địa lý nhạy cảm Việt Nam rất dễ trở thành vật cản trên con đường nước khác mở rộng ảnh hưởng hay là bàn đạp để các nước lớn kiềm chế lẫn nhau , điều đó có nghĩa là Việt Nam là một cô gái hấp dẫn nhưng cần phải hiểu là sự hấp dẫn không chỉ đến từ vẻ đẹp của cô gái mà phần nhiều là do nhà của cô gái ở vị trí trọng yếu trong cuộc so gang giữa những thằng to con đang hầm hè nhau nhằm chiếm vai trò bá chủ khu vực .
Nói qua về VN và các nước ASEAN
Trong khối ASEAN chỉ một mình Việt Nam là có biên giới trên đất liền từng tranh chấp với Trung Quốc, cộng thêm những tranh chấp lãnh hải đang diễn ra về Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), hai chuỗi đảo trong Biển Đông. Philippines cũng giành chủ quyền trên Trường Sa, trong khi Malaysia và Brunei lại đòi chủ quyền một phần ở đó. Những nước khác trong khối ASEAN lâu nay vẫn vui vẻ để cho Việt Nam “đứng mũi chịu sào” trước sức ép của Trung Quốc trong khi họ phát triển quan hệ mậu dịch và đầu tư mạnh mẽ hơn với Bắc Kinh.
Cho đến nay hình như chỉ có sự hợp tác giữa Malaysia và Việt Nam (trong vấn đề Biển Đông) là cao nhất so với các nước khác. hai nước đã cùng đứng tên đưa hồ sơ ra trước ủy ban điều hành Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Hồ sơ này vẽ ra các vùng kinh tế riêng biệt của Việt Nam và Malaysia trong vùng Nam Biển Đông, nhưng liền bị Trung Quốc bác bỏ là “bất hợp pháp” vì Trung Quốc đòi toàn bộ lãnh hải từ Đài Loan đến Singapore.
Khi ngoại trưởng Hoa Kỳ tuyên bố tại Diễn đàn ASEAN vào ngày 23 tháng Bảy năm ngoái rằng Hoa Kỳ có một “lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại trên biển, tự do sử dụng các hải phận quốc tế châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Nam Hải”, Indonesia, Singapore, Malaysia, Phippines, Brunei và Việt Nam trong số mười hai quốc gia liền biểu lộ sự đồng tình về một “tiến trình ngoại giao có sự hợp tác đa phương”. Bằng cách dấn thân vào cuộc tranh chấp Biển Đông, Hoa Kỳ bắt đầu hậu thuẫn ASEAN triển khai một đối sách chặt chẽ hơn ở trong vùng này. Tin tức cho hay , Việt Nam đã thúc đẩy Hoa Kỳ phải có lập trường cứng rắn hơn nữa với Trung Quốc. Và Hà Nội sẽ hưởng được nhiều lợi thế nhất nếu các quốc gia ASEAN luôn luôn đoàn kết nhau khi đối phó với Trung Quốc.
Ấn Độ là một đối tác khác trong vùng có cùng một mục tiêu chiến lược với Việt Nam. Vào ngày 27 tháng 2, hai nước đã đồng ý tăng cường hợp tác quốc phòng nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của tham mưu trưởng quân đội Ấn Độ . New Delhi và Hà Nội có cùng quan tâm chiến lược đối với Trung Quốc và, qua lịch sử, hai chính phủ đã thừa hưởng những quan hệ rất gần gũi, những quan hệ được nhào nặn từ các cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa thực dân.Và Cả hai quân đội đều sử dụng các trang bị tương tự do Nga chế tạo.
Một hợp đồng bề ngoài mang màu sắc thương mại, nhưng thực chất có thể đã tăng cường quan hệ chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam.Tập đoàn BP, vì muốn gây vốn để chi trả các phí tổn cho việc dọn sạch môi trường sau vụ rò rỉ dầu trong Vịnh Mexico, đã rao bán đủ loại tài sản trên toàn cầu, gồm cả phần hùn đầu tư tại vùng trũng Nam Côn Sơn nằm ngoài khơi duyên hải nam Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã cho phép một tổ hợp gồm các hãng năng lượng quốc doanh Ấn Độ và Petro Việt Nam sang lại phần hùn của BP.
Một điều có ý nghĩa là, dự án khai thác khí đốt thiên nhiên trên qui mô lớn này nằm trong vùng trũng Nam Côn Sơn, nơi mà BP đã công bố vào tháng Ba 2009 là sẽ ngưng việc thăm dò, vì sức ép của Trung Quốc. Bằng cách quay sang các hãng Ấn Độ khó bị Trung Quốc đe nẹt hơn, Việt Nam đang mạnh dạn xác định quyền khai thác năng lượng trong đặc khu kinh tế 200 hải lý của mình.
Trong khi đó, Nhật Bản và Việt Nam vừa mới công bố thiết lập đối thoại an ninh song phương giữa các viên chức ngoại giao và quốc phòng của hai nước. Các cuộc đối thoại an ninh quốc phòng là một diễn biến có ý nghĩa trong mối quan hệ song phương của hai nước, một mối quan hệ cho đến nay chỉ tập trung vào thương mại và viện trợ. Nhật Bản cũng đang mở ra các đối thoại tương tự với Hoa Kỳ, Australia và Ấn Độ.
Thật không mấy ngạc nhiên khi Việt Nam phải đi nước đôi, nước ba để chống lại mối đe dọa chiến lược của Trung Quốc. Hai nước có một lịch sử xung khắc lâu dài, kể cả việc Trung Quốc giành lấy quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam năm 1974. Hai nước láng giềng cũng lâm vào một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi năm 1979 và đánh nhau một trận hải chiến tại quần đảo Trường Sa năm 1988. Tuy nhiên, hiện nay, ngay trong giới lãnh đạo Việt Nam hình như đã có một sự đồng thuận tương đối về việc phải quân bình ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách phát triển quan hệ với các cường quốc khác trong vùng, như Hoa Kỳ, Hàn Quốc , Nhật Bản và Ấn Độ. Sự đồng thuận trong Đảng sẽ diễn ra như thế nào và những quan hệ chiến lược với các cường quốc sẽ phát triển như thế nào, hai khả năng này phần lớn tùy thuộc vào cán cân lực lượng đạt được giữa 2 cấu trúc quyền lực đồng minh cảu MỸ và phần còn lại của TQ và ( 1 phần rất lớn ở quyết tâm của lãnh đạo đảng …)
Ngày nay, Mỹ và các đối tác châu Á của họ đang tích cực cân bằng – như kỳ vọng của lý thuyết cân bằng quyền lực/ cân bằng đe dọa – nhưng liệu họ có làm đủ hay không thì gần như không thể đoán trước. Nếu câu trả lời là đủ, Trung Quốc sẽ khó mà trở thành bá quyền châu Á và nguy cơ chiến tranh sẽ giảm xuống. Nếu câu trả lời là không đủ, có lẽ chúng ta nên lo lắng hơn một chút. Phần lớn vấn đề phụ thuộc vào việc liệu Mỹ có thể lãnh đạo một liên minh dễ bị chia rẽ và tìm ra điểm cân bằng giữa làm quá nhiều và làm quá ít hay không. Và ai sẽ muốn đặt cược vào điều đó?
Vấn đề sau cùng với Mỹ không phải là về Trung Quốc, mà là về cách phần còn lại của thế giới sẽ phản ứng. Một mô hình rõ ràng đang nổi lên: Các quốc gia châu Á lo lắng nhất về Trung Quốc đang xích lại Nga và hướng ánh nhìn không thân thiện về Mỹ; phần lớn châu Âu miễn cưỡng đi theo sự dẫn dắt của Mỹ, bởi họ vẫn phụ thuộc vào sự bảo vệ của Mỹ và do đó không có nhiều sự lựa chọn; Nga cũng có rất ít sự lựa chọn ngoài việc gắn bó với cường quốc đối tác duy nhất của mình là TQ ; và các cường quốc tầm trung trên khắp thế giới đang phòng bị nước đôi, tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng chiến lược (về thương mại và đầu tư, quan hệ ngoại giao và hỗ trợ quân sự), đồng thời cố gắng tránh phải chọn phe. Nhìn về phía trước, chúng ta sẽ thấy một trật tự thế giới trông giống thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh đến mức đáng ngạc nhiên: Mỹ liên kết với châu Âu, phần lớn Đông Á và Thái Bình Dương, Trung Quốc liên kết với Nga và một số nước đang phát triển chủ chốt, trong khi các cường quốc tầm trung khác dao động giữa hai bên. Đội hình cuối cùng sẽ không phải là một đội hình hoàn hảo, và một số người chơi sẽ đổi đội, nhưng mô hình tổng thể giống với mô hình mà chúng ta từng thấy trước đây.
1 đối tác chiến lược với mối quan hệ được nâng tầm vị thế ở Việt Nam trong khu vực cùng Mỹ là 1 trong những ƯU Tiên hàng đầu , nhưng tôi nói ở bài trước , thời điểm nào , bối cảnh nào để mối quan hệ VIỆT- MỸ được nâng lên tầm đối tác chiến lược thì chúng ta không thể đoán , nếu đến sớm quá , chúng ta có chịu được áp lực khổng lồ từ TQ hay không ? còn nếu quá muộn , chúng ta sẽ mất đi cơ hội để nâng tầm vị thế cường quốc về đia lý của khu vực , sự cảnh báo của TQ với chúng ta luôn hiện hữu , luôn nặng nề , TQ có nhiều con bài để răn đe , mặc cả với chúng ta từ kinh tế , chính trị đến đường lối ngoại giao và tiềm lực quân sự .
Rào cản lớn nhất trong quan hệ Việt-Mỹ chính là “yếu tố Trung Quốc”. Tuy quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến rất xa, nhưng đến nay hai nước vẫn chưa chính thức nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược” như thực chất và mong đợi. Tuy TBT Nguyến Phú Trọng chưa đi thăm Mỹ vào năm 2019 theo lời mời của Tổng thống Trump vì “lý do sức khỏe”, nhưng ai cũng hiểu lý do chính là vì “yếu tố Trung Quốc”.
Sau khi Tập Cận Bình lên cầm quyền (năm 2012) nguồn vốn của Mỹ và phương Tây đã liên tục đổ vào Trung Quốc. Nhưng trong 10 năm tiếp theo, Tập đã tìm cách loại bỏ ảnh hưởng phương Tây một cách triệt để và có hệ thống, để trật tự kinh tế dựa trên ý thức hệ. Điều khiến “lễ đăng quang” của Tập trở thành “món quà” đối với phương Tây là ông đã lật ngửa các quân bài của mình, và át chủ bài duy nhất vẫn là lịch trình “thống nhất” Đài Loan.
Trong bối cảnh Mỹ tập hợp lực lượng để đối phó với Trung Quốc và tìm cách lôi kéo Việt Nam thành đối tác chiến lược, Việt Nam bị mắc kẹt vào thế lưỡng nan, buộc phải chơi cờ thế với chính sách “ba không” và “không chọn phe”. Chiến tranh Urkaine đã đẩy Nga và Trung Quốc thành đồng minh “không giới hạn”, nên Việt Nam càng phải “đa dạng hóa quan hệ” để không bị bất ngờ và giảm lệ thuộc vào Nga và Trung Quốc.
Tóm lại :
Không phải ngẫu nhiên mà cả Thái Lan và Việt Nam đều vận dụng “ngoại giao cây tre” để tồn tại giữa hai siêu cường thường xung đột hay hòa hoãn với nhau như “hai con voi trong cửa hàng đồ sứ”, có thể gây tai họa cho các nước láng giềng nhỏ hơn. Đó là tình thế lưỡng nan không chỉ với Việt Nam mà còn với một số nước ASEAN khác. Họ buộc phải “không chọn phe” và chơi cờ thế để “cân bằng chiến lược”. Về kinh tế, Trung Quốc đã phát triển thần kỳ, trở thành siêu cường kinh tế thứ hai trên thế giới, nhưng về chính trị, Tập Cận Bình đã quay ngược lịch sử, trở lại mô hình độc tài như thời Mao Trạch Đông hay hoàng đế Trung Hoa. Hai thái cực đó sẽ tạo ra dòng xoáy trái chiều như một cái “hố đen” hay một cái bẫy lớn. Về đối ngoại, quyết định bỏ chủ trương “giấu mình chờ thời” và thách thức Mỹ, là một sai lầm chiến lược của Tập Cận Bình.
Về lâu dài, đó không phải là sức mạnh tiềm tàng mà là “gót chân Asin” của Trung Quốc, có thể biến thành quả hiện nay thành “lâu đài bằng cát ”. Dù Trung Quốc có xuất khẩu mô hình phát triển của họ hay không, Việt Nam cần tìm cách “thoát Trung”. Trong nhiều năm tới, Trung Quốc vẫn là đối thủ chiến lược của Mỹ và phương Tây, nên Việt Nam cần khôn khéo để tránh bị mắc kẹt vào cuộc cạnh tranh chiến lược đó.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét