Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2024

Trung Quốc kho bạc của thế giới ( Phần 1 )

 


Không có mỏ neo nào giữ được Hoa Kỳ và Trung Quốc lao vào 1 cuộc chiến ở Thái Bình Dương.




không còn nghi ngờ gì nữa rằng thế giới đã phát triển đến một mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế đến mức các sự kiện ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đều có thể gây ra tác động toàn cầu. Quả thực, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới , Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn có mối liên hệ rộng rãi , ngay cả khi họ vẫn là đối thủ địa chính trị. Mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đã giảm đôi chút, nhưng mức độ phụ thuộc giữa hai nước vẫn ở mức mà việc tách rời đơn giản là không thực tế. Ví dụ, Trung Quốc vẫn dựa vào vào xuất khẩu sang Hoa Kỳ và các nước khác để có doanh thu; nó cũng kiểm soát quá trình xử lý và, trong một số trường hợp, việc sản xuất các khoáng chất quan trọng được sử dụng một cách hiệu quả trong mọi mặt hàng cần đất hiếm, đồng, niken hoặc coban tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sản xuất. Thiệt hại tiềm tàng từ sự gián đoạn thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể rất lớn - cả về kinh tế và xã hội - đối với cả hai bên.
Thật thú vị khi nghĩ rằng sự phụ thuộc lẫn nhau như vậy đã đạt đến mức mà xung đột vũ trang giữa hai đối thủ này đã trở thành một điều gì đó phi lý, Phải chăng cái giá phải trả khủng khiếp của chiến tranh có khiến cả hai quốc gia phải tìm mọi biện pháp khác trước khi dùng đến hành động vũ trang? Thật không may, lịch sử cho chúng ta rất ít lý do để tin rằng hòa bình là điều tất yếu chỉ vì mức độ phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ. Trên thực tế, các đối tác thương mại đôi khi gây chiến với nhau . Quả thực, theo logic của sự phụ thuộc lẫn nhau, Thế chiến thứ nhất lẽ ra không bao giờ xảy ra . Sự phụ thuộc lẫn nhau không phải lúc nào cũng ngăn cản được chiến tranh trong quá khứ, và có thể chắc chắn rằng nó sẽ không đảm bảo một tương lai hòa bình.
Không giống như Chiến tranh Lạnh, điểm yếu cơ bản của các cơ chế ứng phó với khủng hoảng trước tình hình căng thẳng hiện nay là mức độ tàn phá về vật chất ít hơn là thiệt hại về kinh tế.
Chiến tranh là không tránh khỏi .Những diễn biến chính
1 : Xung đột mang tính hệ thống Mỹ-Trung có thể sẽ mở rộng trên toàn cầu và tới tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả không gian mạng và không gian vũ trụ. Một cuộc xung đột như vậy sẽ mang tính hệ thống, mãn tính và kéo dài, có thể trong nhiều năm. Xung đột sẽ chỉ kết thúc khi một bên hoặc bên kia nhượng bộ và thừa nhận sự thất bại trước đối thủ . Chiến thắng phải mang tính rõ ràng chứ không phải kiểu nhượng bộ mơ hồ .
Quân đội Mỹ và Trung Quốc có thể rơi vào tình trạng căng thẳng tột độ trong một cuộc xung đột mang tính hệ thống do các yêu cầu cạnh tranh nhằm duy trì nỗ lực chiến tranh, ứng phó với một loạt các mối đe dọa xuyên quốc gia cấp tính và giúp các quốc gia đối tác đối phó với những thách thức an ninh của chính họ.
2 :Chiến tranh cường độ thấp có thể bao gồm giao tranh trên diện rộng được tiến hành chủ yếu thông qua các quốc gia đối tác và các nhóm phi quốc gia. Nguy cơ leo thang sẽ vẫn ở mức cao vì cả hai bên đều có thể mệt mỏi với tính chất bất phân thắng bại của cuộc giao tranh như vậy và tìm kiếm những hành động quyết liệt hơn để đưa cuộc chiến đến hồi kết.
3 :Để chống lại lực lượng Mỹ trong một cuộc chiến tranh cường độ cao, Trung Quốc có thể ủng hộ các hoạt động dựa vào vũ khí chi phí thấp hơn, rủi ro thấp hơn và các phương pháp như tấn công chính xác tầm xa, hoạt động mạng và hỗ trợ cho các lực lượng không chính quy.
4: Mặc dù một cuộc chiến như vậy có thể bắt đầu với những mục tiêu chiến tranh khiêm tốn , nhưng khó có thể cưỡng lại sự leo thang do động cơ tiềm ẩn nhằm thống trị phía bên kia. Giao tranh có thể dẫn đến các cuộc tấn công tên lửa quy mô lớn của Trung Quốc trên khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nhằm mục đích tiêu diệt sức mạnh quân sự của Mỹ.
Kinh tế không thể Ngăn chặn chiến tranh
Học thuyết “trả đũa ồ ạt”mà Hoa Kỳ áp dụng vào đầu những năm 1950 quy định rằng Hoa Kỳ sẽ đáp trả bằng lực lượng áp đảo—sử dụng vũ khí hạt nhân chiến lược—đối với các hành động khiêu khích cả lớn lẫn nhỏ. Tuy nhiên, ý tưởng cho rằng Hoa Kỳ sẽ tự hủy diệt chính mình và kẻ thù của mình chỉ bằng hành động khiêu khích đã sớm được chứng minh là vừa nguy hiểm vừa không đáng tin cậy. Thay vào đó, các nhà quân sự và hoạch định chiến lược cần có những lựa chọn giữa đầu hàng và áp đảo lực lượng. Kết quả là, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ thực hiện các phương án phản ứng đáng tin cậy với mức độ sử dụng vũ lực thấp hơn, cả hạt nhân và thông thường. Bắt đầu từ đầu những năm 1960, những phản ứng này đã trở thành một phần trong cơ cấu chính sách và lực lượng của Hoa Kỳ. Leo thang có quản lý leo thang đã trở thành một phần của sự tương tác bình thường giữa hai cường quốc, ngay cả trong trường hợp nguy cơ chiến tranh cao . Sự hủy diệt được đảm bảo lẫn nhau được hiểu ở mức độ leo thang cao nhất, nhưng không bên nào bị giới hạn ở việc chỉ đầu hàng hoặc đáp trả những hành động khiêu khích bằng vũ lực hủy diệt nền văn minh.
Sự tương đồng giữa tình hình Chiến tranh Lạnh và tình hình ngày nay không hề giống nhau . Trung Quốc không phải là Liên Xô, và vị thế của Mỹ trên thế giới hoàn toàn khác so với giữa thế kỷ 20. Tuy nhiên, điểm chung với thời kỳ trước đó là sự tồn tại của xung đột về các mục tiêu ý thức hệ và địa chính trị, cùng với khả năng mỗi bên gây ra thiệt hại khủng khiếp cho bên kia. Không giống như Chiến tranh Lạnh, điểm yếu chính của các cơ chế ứng phó với khủng hoảng trước tình trạng căng thẳng hiện nay là mức độ tàn phá vật chất ít hơn so với thiệt hại về kinh tế. Một số cơ chế ứng phó với khủng hoảng có thể là quân sự, nhưng thiệt hại quốc gia gánh chịu sẽ phần lớn là do hàng hóa bị thiếu hụt, nguồn thu bị cắt giảm và chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Nhưng những động cơ tương tự có thể khiến các nhà lãnh đạo cân nhắc xem có nên chấp nhận nguy cơ thiệt hại do xung đột gây ra hay không vẫn tồn tại.
Hoa Kỳ và Trung Quốc đã phá vỡ mô hình thường thấy trong các cuộc cạnh tranh khác giữa các cường quốc. Việc thừa nhận rằng sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc khác biệt đáng kể so với Chiến tranh Lạnh hầu như không có gì mới lạ . Nhưng ít được chú ý hơn là những cách mà sự cạnh tranh hiện tại thực sự khác với tất cả các cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc trong hai thế kỷ qua.
Chiến tranh Lạnh có những động lực đặc biệt riêng nhưng nó có chung những đặc điểm quan trọng với hai cuộc Thế chiến, và thậm chí với các cuộc chiến tranh thời Napoleon. Tất nhiên, tình trạng công nghệ có sự khác biệt đáng kể, nhưng những điểm tương đồng về các đặc điểm xã hội, chính trị và kinh tế là rất đáng chú ý. Những cuộc tranh giành hoành tráng đó liên quan đến các quốc gia tập trung, thống nhất với mức độ gắn kết nội bộ cao và sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng yêu nước. Các chính phủ có được tính hợp pháp mạnh mẽ, một phần nhờ vào việc mở rộng các cơ hội tham gia chính trị và phát triển kinh tế. Chiến tranh của Thời đại Công nghiệp thường tập trung vào các chiến lược huy động quần chúng cho phép triển khai các đội quân đông đảo bao gồm các công dân-lính được trang bị đồng phục và thiết bị tiêu chuẩn.
Những đặc điểm bất thường của sự cạnh tranh Mỹ-Trung là nhận ra rằng thế giới của chúng ta đang trải qua thời điểm chuyển đổi mang tính thời đại. Thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới, , bắt đầu vào khoảng năm 2000. Kỷ nguyên này được đặc trưng bởi các quốc gia suy yếu, xã hội phân mảnh, nền kinh tế mất cân bằng, các mối đe dọa lan rộng và sự phi chính thức hóa của nền kinh tế , chiến tranh. Những xu hướng như vậy gợi lên những hình mẫu thường thấy ở các xã hội tiền công nghiệp. Chúng xuất phát từ sức mạnh suy yếu của các nước phát triển đã tạo ra thời đại Công nghiệp ngay từ đầu. Kết quả cuối cùng có thể là sự suy yếu nghiêm trọng của tất cả các quốc gia, với những tác động sâu sắc đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.
Những xu hướng này cũng sẽ tác động đến sự cạnh tranh của Hoa Kỳ với Trung Quốc theo ít nhất ba cách. Đầu tiên, các quốc gia đang suy yếu có thể sẽ trở thành đặc điểm trung tâm của cuộc cạnh tranh đương đại. Các quốc gia-dân tộc đang suy giảm tính hợp pháp chính trị và năng lực quản trị . Điểm yếu này mở ra những điểm yếu và cơ hội cạnh tranh, đồng thời mang đến những tình huống bất ngờ mà các nhà hoạch định quốc phòng cần phải tính đến.
Thứ hai, việc đối phó với các mối đe dọa trong nước và xuyên quốc gia có thể cũng quan trọng như việc ngăn chặn một cuộc tấn công quân sự thông thường. Mối đe dọa chính đối với các quốc gia ngày càng bắt nguồn từ các nguồn bên trong chứ không phải bên ngoài - các nguồn như đại dịch , tội phạm và bạo lực chính trị và diễn biến trong nội tại quốc gia . Vì việc không đảm bảo an ninh trong nước sẽ liên quan trực tiếp đến tính hợp pháp của nhà nước , dẫn đến việc các cuộ chiến biến hoạc bao loạn chính trị nghiêm trọng , nên việc kiểm soát những mối nguy hiểm như vậy sẽ trở thành ưu tiên cấp bách.
Thứ ba, quá trình chuyển đổi từ thời kỳ công nghiệp sang thời kỳ đối đầu có thể mang lại nhiều nguy hiểm hơn so với sự chuyển đổi quyền lực tiềm tàng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Sự gia tăng các mối nguy hiểm mà nó mang lại sẽ khiến các quốc gia luôn yếu kém và khan hiếm nguồn lực để giải quyết các vấn đề phải đối mặt. Sự cạnh tranh trong thời bình giữa Mỹ và Trung Quốc có vẻ như sẽ diễn ra trong những điều kiện có mức độ hỗn loạn quốc tế cao; làm giảm tính hợp pháp và năng lực của nhà nước; những thách thức trong nước lan rộng và gay gắt , và những hạn chế nghiêm trọng do các yếu tố kinh tế và xã hội áp đặt, rất khác so với những gì các quốc gia công nghiệp đã trải qua trong thế kỷ 19 và 20.
Vấn đề kinh tế của Trung Quốc là sự lo ngại mang tính hệ thống có chiều sâu lý luận vè sức mạnh quyền lực quốc tế , nó hoàn toàn đạt đến mức đối trong với Hoa Kỳ trong tương lai gần .
Trung Quốc sẽ tổ chức Diễn đàn Vành đai và Con đường lần thứ hai - lần đầu tiên diễn ra vào năm 2017 , để tiếp tục thúc đẩy và tái khẳng định sự ủng hộ đối với sáng kiến ​​thương mại toàn cầu trị giá hàng nghìn tỷ đô , đã có đến 129 quốc gia và 29 tổ chức tham gia vào dự án của Trung Quốc , biến dự án này thành dự án kinh tế , chính trị lớn nhất hành tinh , đây là chính sách đối ngoại tham vọng và lớn nhất trong lịch sử nhân loại mọi thời đại .
Hàng tỷ đô la đã được chi cho các dự án cơ sở hạ tầng mới về đường bộ, đường sắt, bến cảng và hành lang hàng hải trên toàn cầu."dự án phức tạp" nhằm hỗ trợ nền kinh tế Trung Quốc. Bằng cách xuất khẩu vốn dư thừa và năng lực xây dựng cơ sở hạ tầng cho các quốc gia cần các hạ tầng riêng biệt , đồng thời thuê các nhà thầu và công nhân Trung Quốc xây dựng chúng và gửi lợi nhuận trở lại Trung Quốc , sự nguy hiểm hơn nữa là Trung Quốc dựa vào những hành vi cấp vốn bất chấp này mà tiếp cận được những khu vực chiến lược mà trước đây Họ không thể tiếp cận được đơn cử như tuyến đường biển phương bắc với Nga . Trung Quốc đã đầu tư đến 9 tỷ đô để xây dựng các cảng biển và cơ sở hạ tầng cảng biển nhằm tiếp cận những mỏ dầu chiến lược và từng bước khống chế tuyến đường biển quan trong nhất hành tinh trong 15 năm tới , vấn đề đặc biết quan trọng này em đã viết trong bài “ vàng đai bắc cực “ .
Ở châu Tây Thái Bình Dương Trung Quốc tích cực ve vãn các quốc đảo Papua New Guinea, Vanuatu và Tonga tham gia vào BRI , với khả năng tung tiền vô hạn của mình , Trung Quốc đang thể hiện mình là 1 quốc gia có khả năng chi phố toàn cầu . Mạnh vì gạo , bạo vì tiền quả là không sai .
Trung Quốc đã ký thỏa thuận với nhiều đồng minh truyền thống của Mỹ , bao gồm Úc, Nhật Bản, Tây Ban Nha và Hà Lan chỉ là không bị gắn cái mác BRI gây tranh cãi với Mỹ mà thôi .
Một lời chỉ trích lớn đối với kế hoạch Vành đai và Con đường của Trung Quốc là thiếu kiểm soát chất lượng và quản lý thương hiệu, nhưng truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục ca ngợi việc thúc đẩy phát triển chất lượng cao đối với tất cả các dự án của họ .
Trung Quốc cũng được cho là đang soạn thảo các quy định về các dự án có thể được gọi là “Vành đai và Con đường”, nhằm ngăn chặn thương hiệu BRI bị pha loãng bởi các dự án không thành công.
Để đối phó với Trung Quốc Mỹ , Nhật và Úc đã phát động 1 dự án lớn gọi là “ cơ sở hạ tầng Khu Vực “ nhưng vẫn không thể nhiều tiền được như Trung Quốc .
Ở châu Á-Thái Bình Dương, dựa trên 126 yếu tố đánh giá mọi thứ, từ nguồn lực kinh tế và năng lực quân sự, đến mạng lưới ngoại giao và ảnh hưởng văn hóa. Hoa Kỳ, xếp thứ nhất và Trung Quốc, thứ hai, rõ ràng là những siêu cường nhưng sự chênh lệch quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng thu hẹp. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại nhưng nó vẫn đang tăng trưởng về mặt tuyệt đối. Trung Quốc đã có thể chủ động xây dựng nền ngoại giao xung quanh nền kinh tế rộng lớn của mình, xung quanh Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường , đồng thời là tiền đề và trung tâm của sự phát triển địa chính trị trong khu vực .
Thật lạ là đối với nền Kinh Tế hải gọi là Siêu Cường của Mình , Trung Quốc vẫn chỉ được định hình là 1 “ quốc gia đang phát triển “ .
WTO không xác định quốc gia "phát triển" hay "đang phát triển", cũng như không có bất kỳ tiêu chuẩn nào để xác định các thành viên của mình rơi vào nhóm nào.Việc tự phân bổ mình vào nhóm là hoàn toàn tùy thuộc vào từng thành viên.
Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới xác định quốc gia có thu nhập cao - hay quốc gia "phát triển" - bằng cách đặt ngưỡng tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người ở mức 16.900 đô .Vì bình quân đầu người của Trung Quốc — ở mức 9,300 đô và năm ngoái gần đạt mức 12.000 đô vào năm 2021 và đang giảm xuống dưới ngưỡng này, nên có thể lập luận rằng nước này đủ điều kiện để được hưởng quy chế theo khuôn khổ quốc gia đang phát triển , nhưng định nghĩa này không mang tính ràng buộc hoặc không được WTO chấp nhận chính thức và không tồn tại một khuôn khổ toàn diện nào gắn liền với mức tăng trưởng GDP , trong số 164 thành viên - bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ hiện tự coi mình là các nước đang phát triển,
Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều về quy chế quốc gia đang phát triển , vì họ được vay tiền của Ngân Hàng Thế Giới với lãi suất ưu đãi , thời gian trả nợ cũng dài hơn và được những hỗ trợ về thuế quan trong xuất khẩu , Trung Quốc đã dùng số tiền vay của Ngân Hàng Thế Giới để cho các quốc gia kém phải triển vay lại để ăn lãi chênh lệch , quả thực là rất bố láo nhưng mà khôn.
Để đối phó với kiểu khôn lỏi của Trung Quốc , Mỹ đã đề ra dự thảo cải cách đối với WTO , qua đó thúc đẩy khuôn khổ cắt giảm đối xử đặc biệt đối với các quốc gia tự chỉ định được Ngân hàng Thế giới, các thành viên OECD hoặc các thành viên gia nhập, các quốc gia G20 và bất kỳ quốc gia nào chiếm 0,5 % xếp hạng là có thu nhập cao trong thương mại thế giới là quốc Gia phát triển , tiến tới bãi bỏ các đặc quyền tiếp cận vốn và thị trường đối với Trung Quốc , Trung Quốc đã từ chối đề xuất này - cùng với Ấn Độ, Venezuela và Nam Phi. , Trung Quốc vẫn sẽ nhận được sự đối xử đặc biệt với khuôn khổ này của WTO , do nước này có thu nhập thấp, nhưng trung Quốc sẽ bị cấm do vị thế là một quốc gia G20 cũng như sự thống trị của nước này trong thương mại thế giới. Mỹ đã làm mọi biện pháp có thể để kìm chế trung Quốc thao túng vốn của Thế Giới .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Israel không được phép nương tay.

  Tôi không có thói quen quy chụp tôn giáo này tàn ác, dân tộc kia ngu muội. Ta được học tư duy biện chứng, được dạy biến đổi về lượng-chất....