không nên kích động gia tăng những tiềm ẩn rủi ro . Chúng ta kiên quyết tránh khiêu khích quân sự từ phía TQ :
Căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến Biển Đông đã điều chỉnh lại cách tiếp cận của Việt Nam đối với chính sách quốc phòng của mình. Không còn ôn hòa và câm lặng, Việt Nam đang có lập trường quyết đoán và lên tiếng phản đối các yêu sách lịch sử của TQ . Việt Nam cũng đang trở nên cởi mở hơn nhiều với sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông. Bài viết này nối tiếp phần 1 sức mạnh Hải Quân Trung Quốc , từ đó chúng ta xem xét tác động của cạnh tranh địa chiến lược ở Biển Đông đối với quan hệ song phương Hoa Kỳ – Việt Nam và Ấn Độ-Việt Nam, tạo cơ hội cho Việt Nam thách thức các yêu sách bất hợp pháp của TQ trong khu vực.
1 : Tổng quan Hải Quân Nhân Dân Việt Nam ;
Thành lập: 7/5/1955
Quy mô : 50.000 người
112 tàu (bao gồm cả tàu phụ trợ)
Trụ sở chính: Bộ Tư lệnh Quân chủng, 27 Điện Biên Phủ, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng
Quy mô : 50.000 người
112 tàu (bao gồm cả tàu phụ trợ)
Trụ sở chính: Bộ Tư lệnh Quân chủng, 27 Điện Biên Phủ, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng
Phương châm: Đảo là nhà, Biển cả là quê hương (Our Home are the Islands, Our Homeland is the Sea)
– Hạm đội:
9 tàu ngầm
9 khinh hạm
14 tàu hộ vệ
54 tàu tuần tra
10 tàu chiến đổ bộ
8 tàu quét mìn
1 tàu huấn luyện
11 phụ trợ
9 tàu ngầm
9 khinh hạm
14 tàu hộ vệ
54 tàu tuần tra
10 tàu chiến đổ bộ
8 tàu quét mìn
1 tàu huấn luyện
11 phụ trợ
– Tham chiến: Chiến tranh Việt Nam; Chiến tranh Campuchia-Việt Nam; Hải chiến Trường Sa
Tư lệnh Hải quân: Phó Đô đốc Trần Thanh Nghiêm
– Chính ủy: Trung tướng Nguyễn Văn Bổng
– Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng: Chuẩn Đô đốc Phạm Mạnh Hùng
– Phi cơ: Kamov Ka-28 Helix-A; Eurocopter EC225 Super Puma; Kamov Ka-32T Helix-C; Viking Air DHC-6 Series 400.
– Chính ủy: Trung tướng Nguyễn Văn Bổng
– Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng: Chuẩn Đô đốc Phạm Mạnh Hùng
– Phi cơ: Kamov Ka-28 Helix-A; Eurocopter EC225 Super Puma; Kamov Ka-32T Helix-C; Viking Air DHC-6 Series 400.
Hải Quân Nhân Dân Việt Nam đã từng là lực lượng có nhiều tầu chiến nhất khu vực Đông Nam Á , Trước năm 1975, Hải quân vận hành chưa tới 40 tàu tuần tra cùng với lực lượng tàu tuần duyên ven biển. Với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975, Hải quân được mở rộng với các tàu Hải Quân VN Cộng Hoà . Các tàu bị bắt bao gồm 2 tàu khu trục tuần tra, hơn 100 tàu tuần tra và khoảng 50 tàu chiến đổ bộ. Do đó, lực lượng hải quân đã tăng vọt để trở thành lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á vào giữa những năm 1980, với 1.300 trong số 1.500 tàu bị bắt giữ từ Hải quân Việt Nam Cộng hòa hoặc Hải quân Mỹ
Vào tháng 3/1988, Hải quân Việt Nam đã giao chiến với TQ tại Đảo Đá Gạc Ma, khiến phía Việt Nam thiệt hại một số tàu vận tải và có tới 64 người thiệt mạng. Trận chiến đã giành chiến thắng thuộc về TQ , lực lượng đông hơn và mạnh hơn , sử dụng một hạm đội khinh hạm chống lại các tàu vận tải vũ trang hạng nhẹ của Việt Nam. Điều này đã thúc đẩy Hải quân Việt Nam phải hiện đại hóa vũ khí và năng lực hải quân tổng thể của mình.
Hiện đại hóa
Việt Nam bắt đầu hiện đại hóa với hợp đồng mua 2 tàu hộ vệ lớp Gepard của Nga vào năm 2006. Từ thời điểm đó cho đến năm 2016, một loạt thay đổi đã được thực hiện để biến Hải Quân Việt Nam từ một lực lượng hải quân thuần túy nước nâu thành một lực lượng có khả năng bảo vệ lợi ích lãnh thổ của mình ở Biển Đông. Các tàu hiện đại nhất của Việt Nam trong năm 2011 là 5 khinh hạm lớp Petya (2 chiếc Petya-III từ cuối những năm 70 và 3 chiếc Petya-III từ những năm 80) và một tàu tấn công nhanh KBO-2000. Hải quân đã thử thực hiện dự án KBO-2000 với Nga trong đó Cục thiết kế Severnoye thiết kế một chiếc KBO-2000 được đóng tại Nhà máy đóng tàu Ba Son ở thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam chỉ đóng một chiếc duy nhất thuộc lớp này mang tên HQ-381 nhưng không đáp ứng được kỳ vọng của nên dự án bị hủy bỏ.
Cấu trúc tổ chức
Các cấp tổ chức của Hải quân nhân dân Việt Nam từ cao nhất đến thấp nhất là:
– Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân (chỉ huy toàn bộ Hải quân).
– Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân 1, 2, 3, 4, 5.
– Trung – Lữ đoàn, Hải đoàn Hải quân.
– Hải đội.
– Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân (chỉ huy toàn bộ Hải quân).
– Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân 1, 2, 3, 4, 5.
– Trung – Lữ đoàn, Hải đoàn Hải quân.
– Hải đội.
Các lực lượng thành phần
Tàu mặt nước; Lực lượng Đặc công Hải quân; Lính thủy đánh bộ; Không quân Hải quân; Tên lửa – Pháo bờ; Lực lượng Tàu ngầm
Học viện Hải quân
Học viện Hải quân Việt Nam, có trụ sở chính tại Nha Trang, là học viện chính đào tạo sĩ quan chỉ huy hải quân đến cấp sư đoàn, chỉ huy cấp chiến thuật/chiến dịch. Học viên bao gồm cả học viên đại học và sau đại học đang phục vụ trong quân đội.
Tôi đi luôn vào vai trò của Mỹ - Việt Nam trong chính sách Biển Đông :
Tôi nói rất nhiều lần rằng : Việt Nam đang giữ 2 quần đảo lớn nhất ở biển Đông là Hoàng Sa và Trường Sa . đây là 2 nút chiến lược vô cùng trọng yếu đối với sự đột phá chuỗi đảo thứ 1 của TQ . Nếu TQ muốn đột phá được chuỗi đảo thứ nhất của Mỹ ( quần đảo Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Đài Loan và phía bắc Philippines) thì TQ chắc chắn phải tạo được chổ đứng vững chắc ở khu vực biển đông và không đâu thuận lợi hơn là 2 quần đảo của Việt Nam . Trong nhiều bài viết của tôi về địa chiến lực khu vực Biển Đông và chiến lược chuỗi đảo của Mỹ tôi có nói răằng : nếu TQ họ lấy được 2 quần đảo này , TQ sẽ thiết lập được 1 chuỗi đảo kéo dài từ Đảo Hải Nam kết nối xuyên qua 2 quần đảo của Việt Nam . Đây là 1 ngọn giáo sắc bén để TQ tạo đà xuyên thủng chuỗi đảo đầu tiên của Mỹ và Nhật Bản trong bàn cờ vay hãm TQ trong biển Hoa Đông .
Mỹ hoàn toàn ủng hộ Biển Đông, duy trì vị thế là vùng biển quốc tế trong tương lai gần. Nó sẽ cho phép các tàu du lịch và tàu vận tải thương mại đi lại không bị cản trở. Mặc dù Mỹ và TQ là hai bên có ảnh hưởng lớn nhất đến tình hình chính trị ở Biển Đông và dù Việt Nam là chủ thể không thể thiếu trong lĩnh vực này nhưng lợi ích chiến lược của Mỹ và TQ được coi là yếu tố quan trọng nhất. quan trọng đối với mỗi quốc gia. Việt Nam là một chủ thể không thể thiếu trong lĩnh vực này. Bởi vì Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược đối với TQ nếu không muốn nói là TQ có thịnh vượng và đạt tầm Siêu Cường Đại Dương hay không là ở Biển Đông , Mỹ và Việt Nam nên có khả năng ba nước này sẽ sớm xảy ra xung đột về vấn đề này. Những động thái và quyết định chính trị nào của hai siêu cường toàn cầu này ảnh hưởng đến tình hình hiện nay ở Biển Đông? Hơn nữa, Việt Nam có những lựa chọn nào khác khi đối mặt với những hành vi đó?
Biển Đông đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cạnh tranh chiến lược của TQ với Mỹ Nằm ở vị trí chiến lược, nó có cấu trúc địa lý không có vùng biển nào tiếp giáp với Trung Quốc và do đó rất quan trọng đối với hải quân hiện đại của TQ. Kiểm soát Biển Đông là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và hiện đại hóa trong tương lai của ngành hải quân và hàng không vũ trụ của Trung Quốc Tuy nhiên, các hoạt động của Trung Quốc tác động đến cán cân quyền lực ở Biển Đông và đe dọa an ninh, ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Biển Đông là tuyến đường vận chuyển toàn cầu nhộn nhịp thứ 2 thế giới , Biển Đông có ý nghĩa địa chính trị và hơn 50% thương mại toàn cầu hàng năm đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda và eo biển Lombok. Mỗi ngày, hơn 10 triệu thùng dầu thô được vận chuyển qua eo biển Malacca. Cùng với khí hóa lỏng, khối lượng nhiên liệu được vận chuyển qua eo biển Malacca gấp ba lần kênh đào Suez và gấp năm lần kênh đào Panama . Ngoài ra, khu vực này còn có trữ lượng dầu mỏ khoảng 7,7 tỷ thùng, trên tổng trữ lượng ước tính 28 tỷ thùng. Trữ lượng khí đốt tự nhiên ước tính khoảng 7.500 km khối . Mặc dù những ước tính này rất quan trọng, đặc biệt là đối với khí đốt, nhưng chúng vẫn còn khá nhỏ trên quy mô toàn cầu; đối với khí đốt, con số này chỉ tương đương với khoảng 3% nguồn tài nguyên thế giới.
Biển Đông nằm ở phía đông Việt Nam nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trải dài từ Singapore, eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan. Một số quốc gia châu Á tuyên bố chủ quyền đối với nhiều phần khác nhau của một vùng biển có diện tích 3.500.000 km2 , bao gồm một chuỗi các đảo và rạn san hô không có người ở.
Biển Đông chưa bao giờ là mối lo ngại của Mỹ . Tuy nhiên, nó nằm trong chiến lược Đông Á, bao gồm Mỹ, Bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản . Mỹ mong muốn Biển Đông vẫn là vùng biển quốc tế để đảm bảo các tàu quân sự và thương mại đi lại tự do và không bị hạn chế. Tuy nhiên, Mỹ nhận thấy rằng nếu không gây ảnh hưởng trong khu vực, Nhật Bản và TQ sẽ tận dụng cơ hội để bảo vệ thương mại và các tuyến hàng hải của mình bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự để kiểm soát vùng biển
Hiện nay, TQ coi Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của mình cùng với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương . Về phần mình, Mỹ tin rằng Biển Đông có vai trò quan trọng không chỉ đối với các quốc gia tiếp giáp trực tiếp với lãnh hải của Mỹ mà còn đối với tất cả các quốc gia có lợi ích an ninh và kinh tế ở châu Á .Lợi ích cốt lõi của TQ lại đối kháng với những gì Mỹ coi là lợi ích an ninh quốc gia sống còn của Mỹ, cả Mỹ và TQ đều sẵn sàng hành động vì những lợi ích này. Sự cạnh tranh, xung đột giữa hai nước là khó tránh khỏi do những ảnh hưởng về quân sự, chính trị và kinh tế. Đặc biệt, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc đang trở thành yếu tố quyết định môi trường chiến lược ở châu Á và an ninh toàn cầu. Với tầm quan trọng chiến lược toàn cầu như đã nêu ở trên, Biển Đông khi đó là đấu trường cạnh tranh quan trọng giữa Mỹ và TQ và trên toàn cầu trong cả thế kỷ 21 này .
Mặc dù vị trí của Biển Đông ở phía nam TQ được hiểu rộng rãi, nhưng cái tên “Biển Đông” thường dẫn đến niềm tin sai lầm rằng vùng biển này là lãnh thổ của TQ . TQ đã nhiều lần thực hiện các hành động gây bất ổn cho khu vực Biển Đông. Điều này có thể là do GDP lớn thứ hai thế giới ngày càng tăng và từ đó hiện thực hóa “giấc mơ Trung Quốc”. Những động thái này của TQ gây lo ngại cho lãnh thổ ASEAN và gây nguy hiểm cho việc đi lại tự do và thương mại hợp pháp trên tuyến đường biển nhộn nhịp thứ hai thế giới. Mỹ không thể ủng hộ những hành động hiện nay của Trung Quốc đã đưa ra những tuyên bố và hành động ngày càng quyết liệt trên Biển Đông nhằm ngăn chặn sự lạm dụng của TQ. Nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước trong ASEAN nơi Việt Nam giữ vị trí đặc biệt then chốt, đều ủng hộ quan điểm của Mỹ. Để tránh xung đột với TQ và giành được sự ủng hộ của Mỹ và các nước khác, Việt Nam đã lựa chọn biện pháp “chủ nghĩa hiện thực phòng thủ” theo quan điểm của mình.
Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3260 km, cứ 100 km2 lãnh thổ có khoảng 1 km bờ biển, cao gấp 6 lần mức trung bình của thế giới. Không có nơi nào trên đất liền Việt Nam cách bờ biển quá 500 km và các vùng biển, thềm lục địa của Việt Nam là một phần của Biển Đông. Việt Nam có nội thủy rộng lớn, có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ gần và ngoài khơi, ngoài ra còn tuyên bố chủ quyền toàn bộ khu vực Trường Sa và Hoàng Sa , nằm ở trung tâm Biển Đông và tôi nhắc lại rằng , 2 quần đảo này là tối quan trọng đối với an ninh hướng biển của Việt Nam . Do đó, vấn đề Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt: nó liên quan chặt chẽ đến tình hình, an ninh, chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam Các quốc gia ven biển Đông Nam Á, như Việt Nam không có tuyến đường thay thế và các quốc gia eo biển, phụ thuộc nhiều nhất vào các Tuyến đường Liên lạc trên Biển như Biển Đông. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều hoạt động thương mại quốc gia cho các quốc gia ven biển Đông Nam Á: từ 86% ở Việt Nam đến 58% ở Malaysia . Vì vậy, trước những tính toán, hành động của các cường quốc như Mỹ, TQ ở Biển Đông, Việt Nam phải lựa chọn biện pháp phù hợp nhất thông qua chính sách đối ngoại để bảo đảm chủ quyền và lợi ích của người dân Việt Nam.
TQ muốn tạo ra một khu vực hợp tác kinh tế lấy TQ làm trung tâm, với tham vọng thay thế vai trò của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Khởi động BRICS để hợp tác kinh tế, văn hóa và chính trị trị giá hàng nghìn tỷ đô la với sự tham gia và hưởng ứng của các nước Trung Á, Trung Đông và một số nước Đông Nam Á như Thái Lan và Campuchia vì lợi ích kinh tế và cơ sở hạ tầng của dự án này mang lại.
Đối với vấn đề Biển Đông, mặc dù TQ biết hành động của mình không phù hợp với luật pháp quốc tế nhưng nó vẫn muốn tiếp tục các hành động của mình , bởi vì: TQ làm điều này để đảm bảo rằng 'các nút và mạng lưới của họ là những điểm chính mà qua đó vốn, vật chất và con người ở Biển Đông phải chảy qua.
Mỹ đã cảnh giác với TQ từ những năm 2000 , nhưng những nỗ lực kìm hãm TQ chỉ mới gần đây . Chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ năm 2018 nêu rõ nền tảng và các ưu tiên sẽ định hướng chính sách đối ngoại của Mỹ trong tương lai . Trong trụ cột “tăng cường ảnh hưởng của Mỹ”, Mỹ liên tục gọi Trung Quốc là “cường quốc đối thủ” đang “thách thức quyền lực, ảnh hưởng và lợi ích của Hoa Kỳ, tìm cách phá hoại an ninh và thịnh vượng của Hoa Kỳ”. Trung Quốc đã trở thành mục tiêu quan trọng trong ưu tiên bảo vệ an ninh kinh tế của Mỹ .
Mỹ đã tái định hình lại khu vực Thái Bình Dương bằng cách chuyển Mỹ từ chiến lược Xoay trục sang châu Á thành chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng với các nước trong khu vực và đảm bảo an ninh ở vùng biển trải dài từ Biển Nhật Bản đến Ấn Độ Dương. Mỹ cam kết hỗ trợ các đồng minh thân cận duy trì sức mạnh quân sự vượt trội và ngăn chặn các cuộc tấn công nhằm vào các nước khác nhằm thống trị và kiểm soát toàn bộ khu vực, ngăn chặn các nước trong khu vực thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ
Sự lựa chọn của Việt Nam
TQ có thể sẽ tiếp tục thúc đẩy việc xây dựng căn cứ ở Biển Đông để đẩy Mỹ ra khỏi khu vực. Điều quan trọng trong vòng hai thập kỷ tới, TQ sẽ tiếp tục xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông với hai quần đảo là Trường Sa và Hoàng Sa Mặt khác, phía Mỹ ngày càng nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong việc đảm bảo khu vực Biển Đông thực sự tự do và cởi mở nên Việt Nam sẽ là đối tác mà Mỹ phải duy trì quan hệ chặt chẽ. Do đó, yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trước hết là vì lợi ích của Việt Nam nhưng cũng là trở ngại cho tham vọng của Trung Quốc và có lợi cho Mỹ. Hậu quả là quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ rất phức tạp. Vậy Việt Nam nên quyết định thế nào?
Trước thực tế và những tính toán đang diễn ra ở Biển Đông, Việt Nam đang cân nhắc kỹ lưỡng các phương án của mình, đặc biệt là trong mối quan hệ với các nước lớn trong tranh chấp ở Biển Đông. Trong lịch sử, một “cơ chế cứng” dưới hình thức liên minh quân sự, trong đó các nước bị ràng buộc bởi cam kết bảo vệ an ninh của nhau trước mối đe dọa từ bên thứ ba như trong Chiến tranh Lạnh, chưa phải là một lựa chọn đối với Việt Nam. Ngược lại, một “cơ chế mềm” thể hiện trong đối thoại chiến lược về an ninh quốc phòng hay các mô hình hợp tác hải quân thực tế giữa Việt Nam với các nước như Mỹ, Ấn Độ thời gian gần đây được đánh giá là khả thi hơn. Hơn nữa, Việt Nam đang thực hiện chính sách đối ngoại đa phương, cởi mở, khiến Việt Nam trở nên đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế và nhờ đó nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trên chính trường quốc tế với tư cách là thành viên không thường trực của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và trong Tổ chức An ninh Liên hợp quốc. Hội đồng 2008–2009, 2020–2021; Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc , phát huy tư cách thành viên tích cực trong các phong trào, hiệp hội, Vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Cách xử lý của Việt Nam là phát triển song phương trong quan hệ đối tác, mở rộng đa phương trong khuôn khổ cơ chế an ninh tập thể, chủ yếu là trên sân chơi của ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình “Hợp tác cùng phát triển” trong việc mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực. Điều này nhấn mạnh rằng các nước trong tranh chấp dựa trên lợi ích của các bên liên quan phải tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế. Nghe có vẻ là hình thức nhưng thực tế để tạo ra khung pháp lý cho DOC vô cùng khó . Chính vì vậy chúng ta liên tục đề xuất TQ sớm thông qua . Danh không chính thì ngôn không thuận là vậy . Nếu không thông qua DOC thì mọi quốc gia trong khu vực không có khung pháp lý để đấu tranh dựa trên quyền lợi hợp pháp của mình .
Việt Nam đang ở vị trí then chốt, vừa ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mình, vừa có thể đóng vai trò thúc đẩy hoặc hạn chế xung đột ở Biển Đông ở mức độ tương đối. Vì vậy, Việt Nam cần hết sức rõ ràng, minh bạch trong quan hệ song phương, đa phương và chủ động hoạch định chính sách, chiến lược ứng phó với những thay đổi phức tạp trong khu vực. Có ba phương án mà Việt Nam có thể áp dụng.
Thứ nhất là cân bằng,
thứ hai là nhượng bộ
thứ ba là chủ nghĩa hiện thực phòng thủ.
Đầu tiên, cân bằng .
Trong chính trị thế giới, đối trọng là điều kiện để một quốc gia cân bằng với quốc gia khác. Dù Việt Nam quá yếu để thách thức trực tiếp bất kỳ nước lớn nào trong khu vực, Việt Nam vẫn có thể gián tiếp tạo thế cân bằng bằng cách liên kết với Mỹ và các đồng minh khác trong khu vực và từng bước tách khỏi TQ. Tuy nhiên, có hai nguyên nhân chính khiến Việt Nam khó thực hiện chiến lược này.
Đầu tiên là vì mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc. Từ năm 1991, Việt Nam duy trì chính sách quốc phòng “ba không”, tránh liên minh có thể gây phản đối từ Trung Quốc. Năm 2019, Việt Nam chủ trương phát triển “bốn không” và 1 “ Tuỳ “ chiến lược phòng thủ. Trong hoàn cảnh đó, một thế cân bằng có thể khiến TQ nghĩ rằng phạm vi ảnh hưởng của họ đang giảm sút ở Việt Nam. Như vậy, TQ có thể tăng cường các hoạt động quyết liệt bất hợp pháp chống lại Việt Nam ở Biển Đông .
Nguyên nhân thứ hai là Việt Nam thiếu đồng minh tin cậy để đối trọng với TQ. Chỉ có Mỹ và Nhật Bản là lựa chọn phù hợp. Tuy nhiên, dưới thời Chính quyền Trump, Mỹ ít quan tâm đến các vấn đề quốc tế như mối quan hệ với các nước Đông Nam Á và tập trung hơn vào việc giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích và vai trò của Mỹ, như cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Triều Tiên . Mặc dù dưới thời Biden, các vấn đề quốc tế đã được giải quyết hài hòa hơn, có lợi cho cả Mỹ và đồng minh nhưng mọi hành động của Mỹ ở Biển Đông vẫn nhất quán với những hành động và tuyên bố tương tự như thời của Trump .
Nhật Bản là đồng minh phù hợp vì nước này có xung đột với TQ trên biển nhưng không có đủ sức mạnh để tham gia vào các tranh chấp quân sự Dù thế nào đi nữa, việc theo đuổi chiến lược “đối trọng” với TQ sẽ đi ngược lại tuyên bố của Việt Nam về chính sách giải quyết xung đột ở Biển Đông một cách hòa bình dựa trên luật lệ và luật pháp quốc tế. Vì vậy, Việt Nam có thể không muốn từ bỏ chính sách này để theo đuổi chiến lược “đối trọng” thiếu khả thi.
Thứ hai, hãy nhượng bộ .
Phương án thứ hai, hoàn toàn trái ngược với “đối trọng”, là giảm quan hệ với Mỹ, xích lại gần Trung Quốc hơn, nhượng bộ nhiều hơn với Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, phương án này không khả thi, trước hết vì chủ quyền chung trên Biển Đông là vấn đề cốt lõi của Việt Nam và việc nhượng bộ sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của Việt Nam. Đồng thời, nó tạo điều kiện cho TQ có những hành động mạnh mẽ hơn ở Biển Đông.
Thứ hai, tâm lý bài Trung ở Việt Nam rất mạnh, nên nếu Việt Nam thỏa hiệp với TQ để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thì có thể sẽ có sự phản đối rất gay gắt của dư luận và truyền thông Việt Nam. Và cuối cùng, nếu nhượng bộ Trung Quốc, Việt Nam sẽ bị các nước như Mỹ, Nhật Bản xa lánh, quan hệ với các nước ASEAN sẽ rạn nứt. Vì vậy, lựa chọn thứ hai này là không khả thi.
Thứ ba, chủ nghĩa hiện thực phòng thủ .
Việt Nam cần giải quyết chiến lược “chủ nghĩa hiện thực phòng thủ”
Chủ nghĩa hiện thực phòng thủ nhấn mạnh đến việc tối đa hóa sức mạnh và ảnh hưởng của các quốc gia trong một hệ thống vô chính phủ. Trọng tâm của chiến lược này là nhu cầu tăng cường sức mạnh bản thân để đối phó với những tác động của chiến tranh. Vì vậy, Việt Nam nếu thực hiện chiến lược này phải đầu tư xây dựng lực lượng kinh tế và quốc phòng mạnh mẽ, hội tụ nội lực của toàn dân; và còn trong việc xây dựng vị thế quốc tế trên cơ sở tận dụng “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế của thời đại”. Đây có thể là con đường quan trọng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và các đảo trong thời gian tới.
Để thực hiện chiến lược này với TQ và Mỹ, Việt Nam cần thực dụng trong hợp tác kinh tế . Đối thoại trực tiếp trên cơ sở hợp tác song phương; cân bằng một cách nhẹ nhàng bằng cách tăng cường quan hệ với TQ và Mỹ cũng như các cường quốc khác và tham gia hiệu quả hơn vào các hiệp định đa phương để theo đuổi các chương trình nghị sự cụ thể và cuối cùng là tăng cường khả năng quân sự và quốc phòng ngang hàng với các quốc gia khác để ngăn chặn các mối đe dọa.
Trong chủ nghĩa hiện thực phòng thủ, nội lực là sức mạnh tổng hợp của dân tộc, với tổng lực lượng bảo đảm sự tồn tại và phát triển của quốc gia dân tộc . Điều này bao gồm việc tính đến các yếu tố vật chất (phần cứng như tài nguyên, con người, kinh tế, quân sự), yếu tố tinh thần (phần mềm như chất lượng chính phủ, giáo dục, văn hóa, hệ tư tưởng, tôn giáo) và sức mạnh ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế (chính sách đối ngoại, vị thế trong nước). các tổ chức quốc tế, khu vực và toàn cầu). Phương án phòng thủ hiện thực cho phép Việt Nam thu được lợi ích kinh tế và đảm bảo an ninh trong khi vẫn kiên định bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ hai, nó phù hợp với chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam, mà từ những năm 1990 đã nhấn mạnh Việt Nam “sẵn sàng làm bạn” với tất cả các nước
. Thứ ba, nó cho phép Việt Nam tránh được mối quan hệ hỗn loạn với bất kỳ cường quốc nào, điều đã dẫn tới xung đột trong những năm 1970.
Lựa chọn phương án thứ ba này, Việt Nam sẽ nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khu vực, từ đó có khả năng biến Biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Ngoài ra, việc xây dựng một thể chế được chấp nhận về hồ sơ Biển Đông giữa các nước ASEAN và tiến triển của Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) cũng là những bước đi ngoại giao quan trọng mà Việt Nam cần nỗ lực. Đây là những bước đi cần thiết giúp Việt Nam lồng ghép lợi ích quốc gia với lợi ích chung của khu vực. Điều này sẽ làm giảm nguy cơ đối đầu trực tiếp với TQb. Đồng thời được sự ủng hộ, giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và các nước khác trong vấn đề Biển Đông.
Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại thông minh, linh hoạt để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho các nền kinh tế đang phát triển. Cần tăng cường quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt chú ý đến quan hệ hài hòa với Mỹ và TQ, sao cho: “Bảo đảm lợi ích quốc gia cao nhất , tạo sự đan xen lợi ích và tăng cường sự tin cậy.
Việt Nam chưa đạt đến mức độ quyền lực mềm trên thế giới ở tư thế không thể bị tấn công như Singapore , Nhưng chúng ta đang nắm trong tay những lợi thế mang tính chiến lực then chốt ở khu vực . Chúng ta chọn phương án Đối Đầu – nhượng bộ hay phòng thủ tích cực ? điều này cần sự lựa chọn sáng suốt của những người đứng đầu Đất Nước , Về cơ bản chúng ta đang đi đúng hướng của chiến lược chủ nghĩa hiện thực phòng thủ , phát triển và tích luỹ nội hàm sức mạnh quốc gia . Điều quan trọng nhất – chúng ta không được sa đà vào những tranh chấp để đẩy cao vấn đề tranh chấp lên thành xung đội . Hiện tại chưa nên , và cũng chưa phải thời điểm để chúng ta tự do hành động .

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét