Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

Israel không được phép nương tay.

 Tôi không có thói quen quy chụp tôn giáo này tàn ác, dân tộc kia ngu muội. Ta được học tư duy biện chứng, được dạy biến đổi về lượng-chất. Tư duy đúng sai, hành vi con người sẽ dần thay đổi k


hi mức sản xuất xã hội dần tăng cao. Nó đồng nghĩa với việc xã hội càng tiến bộ , thì nhận thức con người càng được trui rèn 1 cách văn minh hơn . Nhưng điều đó chỉ xuất hiện trong 1 xã hội được tự do về quyền con người ,tôn trọng sự thật và sự tôn trọng những khác biệt trong mỗi cá nhân .


Ta biết có những ý kiến trái chiều , chúng ta chấp nhận nó như 1 biểu hiện của 1 xã hội tự do và dân chủ ,nhưng những ý nghĩ , và 1 số người diễn đạt nó theo kiểu định hướng số đông thì đó là sự lệch lạc trong tư tưởng  nó không đại diện cho sự tự do trong 1 xã hội văn minh .


Các tổ chức hay cơ quan truyền thông luôn định hướng cho mình 1 lượng người đọc mà được gọi là " độc giả " họ hướng những thông tin khiến lượng độc giả này vào 1 luồng thông tin 1 chiều , định hướng họ theo cách họ muốn , đây là sự thao túng nguy hiểm về ý thức và cảm quan nhận định của người đọc thông tin . Tôi rất lên án kiểu đưa tin của các báo chí Việt Nam, họ đưa ra những vấn đề không rõ ràng hay làm rõ các sự kiện vốn dĩ phức tạp và cần phải làm rõ cho quần chúng hiểu . Sự mập mờ , mơ hồ trong các bài viết dẫn đến sự suy luận lệch lạc của đa số người đọc .Đưa tin nửa vời ,cài cắm nhận định 1 chiều 1 cách tinh vi.


Tôi không hiểu 1 số bài báo có xu hướng ủng hộ Iran ? Tốt thôi , tự do thông tin và tự do bày tỏ quan điểm là cần thiết trong 1 xã hội thông tin . Nhưng chính cái xã hội thông tin này cũng mang lại những hệ lụy khôn lường cho người đọc , người ta có thể phát phát hiện khi nói dối 1 .2 .3 lần , nhưng nếu liên tục nói dối , thì đó không còn là bình thường nữa, và những người nghe những lời dối trá đó lâu dần nó sẽ mặc định là sự thật , sự dối trá lặp lại nhiều lần nó sẽ biến thành sự thật , đây là tâm lý chung của đa số đám động. 1 loại ma thuật ngôn ngữ , và tâm lý để ru ngủ và ngu hóa đám đông .


Báo chỉ luôn nói Israel di.ệt và đàn áp người Pas ? Cũng đúng đấy, nhưng đặt nó vào trong bối cảnh và hoàn cảnh nào thì những người nhận định này lại không nhắc đến.


Kiểu lập luận 1 chiều như vậy không khó để tìm thấy trong các bài viết dạo gần đây . Từ năm 1993 đến năm 2003, 303 kẻ đánh bom liều chết người Pas đã thực hiện các phi vụ khủng bố trên khắp lãnh thổ Israel. Thực tế là Chính phủ Israel đã khởi xướng việc xây dựng hàng rào an ninh vào tháng 7 năm 2003 sau nhiều vụ đánh bom liều chết và tấn công khủng b.ố của người Pas.


Anh kh.ủng b.ố  người ta, người ta phải tìm cách tự vệ chứ. Hàng chục năm qua, Israel diệt chủng người Pales như nào vậy ? bằng cách tạo công ăn việc làm, cung cấp điện nước cho Gaza à? Có lần nào tự nhiên người Israel đánh bom Gaza vậy ? Nếu 1 trong 2 đối tượng có mong muốn (và có hành động) diệt chủng bên còn lại thì chính là là người Pals đó, cả trong ý nghĩ và hành động luôn.


Các ông công nhận quyền "thực tế hiện có" của Pales mà không quan tâm đến "thực tế hiện có" của Israel à ? Trong khi Israel là 1 quốc gia, còn Pales đâu phải là 1 quốc gia ???


Phần Lan giờ xây hàng rào biên giới với Nga, kì thị phần lớn người Nga đó, không biết các ông có cho là họ "phát xít" không; người Mỹ xây dựng hàng rào biên giới với Mexico đó, không biết các ông có cho họ là thi hành chính sách đế quốc, thực dân không? 


Thành công của Iran và người Pales là Israel biến mất khỏi Trái đất này nhé, họ nói rõ đấy.


Các ông chỉ kêu gọi bảo vệ quyền lợi của kẻ yếu là Pales hay Iran mà ít quan tâm đến lợi ích của Israel ; đồng tình với hành động khủng bố của Pales (bằng cách cho rằng đó là quyền đấu tranh) nhưng không đồng tình với việc tự bảo vệ (bằng kinh tế, bằng bạo lực) của Israel vì cho rằng đó là diệt chủng. Tôi hỏi cái này có phải các ông thiên kiến không ?


Vì sao mà người Pales không thể thành lập 1 quốc gia ? Báo chí Việt Nam luôn nhắc đi nhắc lại sự khổ đau của người Pales khi họ không thành lập được 1 quốc gia đúng nghĩa ?


Pales không có được nhà nước là do chính họ thôi, chỉ cần người Pales công nhận Israel là có nhà nước , và Israel là 1 quốc gia độc lập . Vấn đề này Israel đã nói đến 5 lần rồi , nếu Pales công nhận quyền chính thể của Israel thì Israel cũng công nhận Pales là 1 nhà nước chính thể độc lập . Có qua có lại , chứ người Pales đấu tranh để có quyền thành lập 1 nhà nước , thì người Israel lại không có cái quyền đó ? Israel nói rõ rằng sẽ công nhận tính hợp pháp của nhà nước Pales khi họ cũng công nhận quyền độc lập của người Israel. 1 sự trao đổi có lợi cho cả 2 . nhưng người Pales lại muốn ăn cả . mình độc lập còn Israel thì không được phép như vậy .


Nhiều người lại nói Pales không ủng hộ Hamat hay thân với Iran , họ nói Hamat không đại diện cho người Pales , nhưng chính người Pales đã đưa Hamat lên làm lãnh đạo họ trong 15 năm qua ở Gaza thông qua bầu cử. Thiết lập mối quan hệ với Iran để làm gì ngoài mục tiêu tiêu diệt nhà nước Israel? 


Tôi nói sẽ vô cùng nguy hiểm khi so sánh công cuộc dành độc lập của người Pales với Việt Nam , sự mù mờ quan điểm này là rất đáng lên án và lệch lạc nguy hại đến lớp trẻ. Nó đang đánh đồng giữa quyền lợi hợp pháp và vấn đề cổ xúy cho bạo lực phi pháp .


Đừng ngụy biện kiểu đó để kêu gọi sự đồng cảm của người Việt.

Cha ông ta đánh giặc trên đất của ta, nó khác. Pales từng được chia đất nhưng không chịu, đòi hết 100%, không công nhận nhà nước Do Thái, kéo bè , kéo cánh , xúi dục các quốc gia thù địch tấn công nhằm tận diệt người Israel, đây là những điểm tôi cho rằng chúng ta không thể và không nên đồng cảm với người Pales hay các quốc gia như Iran .


Các Ông công nhận quyền đấu tranh của Pales nhưng sao lại không công nhận quyền được sống, quyền tự vệ của người Do thái ?


Tôi nói thật thà sống dưới chế độ "ngụy quyền" Seoul còn hơn làm công dân nước độc lập như Triều Tiên, Afganistan,... vì ta thấm nhuần câu của ..... Nói : “Nếu đất nước độc lập mà người dân vẫn không được hưởng hạnh phúc ,tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. 


Nếu cho các cụ chọn sống ở Bắc Hàn hay Hàn Quốc , Nhật Bản thì các cụ chọn mình sống ở  đâu ?

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Palestine có đáng thương ??


Tôi nói nếu trên thế giới này có 1 dân tộc, 1 cộng đồng người mà tráo trở , lật mặt và tham lam vô độ thì người Palestine số 2 , không ai là số 1 . 


Ngoài đi xin ăn của quốc tế ra thì cái hơn duy nhất của người Palestine là đẻ nhiều hơn người Israel, lịch sử cận đại không có 1 cái đóng góp nào cho sự tiến bộ nhân loại gọi tên Palestine. 


Khu vực bờ tây dải GAZA , nơi Israel xây khu định cư lâu nay, người Palestine ở đây có 1 cuộc sống no đủ và an ninh , nó trái ngược hoàn toàn với GAZA khi 15 năm qua Israel cho họ tự do bầu cử, và cái giá cho sự tự do này là dân Palestine ở gaza nuôi dưỡng các mầm mống Hamal, 1 loại khủng bố mặc áo dân thường . 1 con chó không xích của Iran.


Tôi nói luôn rõ ràng 1 điều mà những người ủng hộ Palestine phải nhớ : Không có quốc gia nào là Palestine cả. Không có , nhắc lại là không có .


Tôi nói luôn người Palestine là dạng người tham lam vô độ , lá mặt lá trái , phản bội ân nhân và cực kỳ bẩn tính. Cứ cãi thoải mái đi tôi chứng minh ngay bây giờ.


Palestine có truyền thống chạy đến nước nào là làm loạn ở nước đấy.


Người Palestine di dân vào đất Jordan để mong được bảo vệ, vua Jordan chơi đẹp cho hẳn 1/2 ghế quốc hội dù dân Palestine  chỉ chiếm 1/5; ở nhờ nhưng vẫn khủng bố vào Israel, Israel điên tiết đem quân sang đánh, vua Jordan đem quân cứu Arafat.


Nhưng được 1 thời gian lớn mạnh rồi thì muốn lật đổ vua Hussein, ám sát vua Hussein 2 lần (nhưng không thành công), sau đó ám sát thủ tướng Jordan (thành công).


Sau khi bị đuổi khỏi Jordan thì di chuyển sang Liban, "góp công" lớn gây ra nội chiến Liban chết hàng trăm ngàn người, rồi gây ra vụ thảm sát Munich,...


Lại nói đến Kuwait, đất nước này cho 1 lượng lớn dân Palestine tị nạn, nuôi ăn từng bữa. Nhưng khi quân đội Iraq tràn sang xâm lược, toàn bộ dân Palestine ở Kuwait tràn ra đường vẫy cờ , chào đón quân xâm lược Iraq  

, trong khi chính Kuwait đang là lnhà nước bảo trợ, cưu mang họ .Tôi hỏi cái đám dân Palestine là cái loại gì ? 



Ai Cập khiếp vía khi chút nữa thì mất nước, nội chiến  khi người Palestine tị nạn ở đây đòi có chán trong chính phủ .


Liên hợp quốc cắt đất cho không chịu, trong khi Israel được chia phần đất xấu hơn với toàn là xa mạc .Lúc có trọng tài chia đất thì không chịu, kéo bè cánh tưởng ăn tươi nuốt sống Israel,  diệt chủng israel , giờ đánh không lại thì cào mặt ăn vạ, cái loại  dân tộc như Palestine đó không đáng để tồn tại .


Người Palestine mang quốc tịch Do thái (từ thời chiến tranh giành độc lập của Israel) được hưởng quyền công dân bình đẳng như mọi công dân Do thái khác. Sướng hơn nữa là ko cần phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, nếu muốn. Bất chất những điều đó , người Palestine luôn dậy con em mìn rằng phải gi.ết người Israel đến không còn người nào . 1 loại ác cảm mang tính truyền thống khổn khổ , khốn nạn.


Vấn đề ở đây rất đơn giản. Từ thời đế chế Otoman chỉ có 2 cộng đồng dân tộc lớn là Do thái và Arab sống cạnh nhau ở vùng đất này. Trong Thế chiến I, người Anh muốn lợi dụng tiềm lực và sức ảnh hưởng của người Do Thái để hất cẳng người Thổ nên hứa cho họ một nhà nước. Đạt được mục đích rồi thì người Anh nuốt lời. Nhưng người Do Thái thì ko quên nên họ di cư ồ ạt về đất Thánh để đấu tranh đòi nhà nước của họ.


Từ xa xưa đây là vùng đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, đất đai trồng trọt rất ít, chỉ toàn hoang mạc, đầm lầy, đất nhiễm mặn. Nên sinh kế chính của cư dân Arab là chăn thả gia súc và đi ăn cướp. Ăn cướp của khách hành hương và ăn cướp lẫn nhau. Bởi thế nên ý thức cộng đồng của họ chưa bao giờ vượt quá tầm bộ lạc để trở thành ý thức quốc gia và quan niệm mắt đền mắt răng đền răng ăn sâu vào tâm thức cư dân từ thế hệ này sang thế hệ khác.


Người Do thái di cư đến đây ko lấy cái gì ko thuộc về mình. Bởi đất của vùng này hoang hóa và cằn cỗi nên di dân mua được với giá rẻ, sau đó nhờ tiền và nông cụ đầu tư từ Tổ chức phục quốc + sức lao động mà canh tác. Ngay cả như thế, trong một thời kì dài, chỉ 1/10 người di cư trụ lại được, và sau rất nhiều thử nghiệm, các cộng đồng kibbutz - một hình thức hợp tác xã Do thái - mới ra đời.


Ban đầu 2 cộng đồng chung sống hòa thuận với nhau, người Arab ngày chỉ ngồi rung đùi hút thuốc, cắt đất hoang hóa bán ăn dần. Nhưng với những biến động chính trị ở Châu Âu khiến lượng người di cư tràn về nhanh và nhiều cộng với năng suất canh tác của người Do thái tăng vọt, trong khi quỹ đất bán ngày càng teo tóp, xung đột bắt đầu nảy sinh. Một đằng coi thường bọn ham ăn lười làm, còn đằng kia ghen tị với sự sung túc của người Israel mới di cư tới.  Thế là ông Arab bắt đầu giở trò truyền thống của dân du mục, ăn cướp. Thế là đụng độ bắt đầu xảy ra và truyền thống mắt đền mắt răng đền răng cuốn cả 2 bên vào cái vòng luẩn quẩn.


Bọn Anh can gián mãi cũng đâm ra mệt mỏi. Lợi ích thì ít mà suốt ngày phải can 2 thằng đánh nhau, vừa phải ăn đạn lạc vừa phải nghe chửi. Thế là Anh quyết định kéo quần bỏ chạy, bỏ lại quyền Ủy trị cho Liên Hiệp Quốc. LHQ bảo thế thì chia làm 2 quốc gia theo hiện trạng 2 bên đang chiếm giữ. Ông Israel thấy đất mình ko bằng 1/10 ông Arab nên mới nài xin thêm cái sa mạc Negev vốn ko có sự sống. Được chấp nhận rồi thì ông tuyên bố thành lập nhà nước. Tất cả các nước Arab xung quanh ko chấp nhận, ùa nhau tấn công hội đồng nhưng thua ngược, ko những ko diệt hết người Do thái, cướp hết đất của họ mà còn bị mất kha khá đất của mình.


Thua nhưng ko phục. Theo đúng truyền thống mắt đền mắt, răng đền răng, bọn Arab tiếp tục đặt cửa tố lên cao, nhưng càng tố càng thua, càng đánh càng âm vốn. Đến tận năm 2024 vẫn cứ tiếp tục như thế.


Đạo lí ở đây là gì. Anh ko thể cậy khỏe, cậy lớn vác dao sang nhà hàng xóm giết người, cướp đất được. Vì luật pháp ko cho phép. Và khi anh tuyên bố ko thừa nhận luật pháp nào ngoài sức mạnh bản thân thì anh phải chấp nhận đối phương hành xử với anh đúng như thế. Chứ ko thể có chuyện anh cướp giết ko được thì quay về nhà kêu xí xóa rồi mai lại sang cướp giết tiếp. Ở đây, người Do thái ko có làm gì sai. Họ ko thể tồn tại chỉ bằng cách trụ lại trên một mẩu đất con con rồi cứ đứng đấy chống cự hết lần này đến lần khác một kẻ thù đông và hung hãn hơn gấp bội. Chỉ có 1 con đường, tước đoạt đất đai của người Arab thua trận và qua đó tước đoạt nguồn sức mạnh và không gian phát triển của kẻ thù. Ta lớn lên, địch bé đi. Ta mạnh lên, địch yếu đi. Ngoài ra, ko còn cách thức nào khác.


Thực tế đã chứng minh người Do thái có thể nhượng bộ bằng công thức đổi đất lấy hòa bình, đó là trường hợp dải Gaza 2005, bán đảo Sinai 1982. Một thành công, một thất bại. Nhưng thực tế cũng cho thấy người Palestine ko chịu nhượng bộ gì hết. Họ ko thừa nhận quyền tồn tại của người Israel và mong muốn duy nhất là chiếm giữ tất cả đất đai của người Israel như slogan chính trị mà họ theo đuổi: "From the river to the sea, Palestine will be free"


Người Palestine cực kỳ tham lam và hiếu chiến , bản chất bộ lạc luôn tồn tại cho dù họ có tiếp xúc với nền văn minh sâu sắc thế nào đi nữa . Ít nhất 5 lần Israel đồng ý để họ thành lập một nhà nước với điều kiện thừa nhận quyền tồn tại của nhà nước Israel. Cả 5 lần người Palestine đều từ chối


Với một kẻ thù quyết tâm giết và cướp đất mình thì người Israel có thể làm gì hơn?


Năm 1947 trọng tài LHQ nó chia đất rồi, nếu bọn Ả Rập- Palestin thấy ko công bằng sao ko đưa ra một giải pháp chia đất khác. Trừ khi không có phương án nào khác thì mới chọn chiến tranh. Bọn Ả Rập cậy đông, tin rằng chắc thắng nên chọn luôn phương án chiến tranh, bọn nó tham, âm mưu muốn diệt toàn bộ Israel. Chính bọn Ả Rập mới phải chịu trách nhiệm về tình trạng xung đột. Đến năm 1967 bọn Ả Rập lại gây chiến, cũng với mục tiêu cũ là diệt Israel. Những cuộc chiến toàn do bọn Ả Rập gây ra, cũng cần hiểu rằng bọn Ả Rập Palestine tham gia vào. Israel ko tham gia vào chiến dịch tiêu diệt, trong khi bọn Ả Rập muốn Israel phải bị tiêu diệt. Vậy là thằng nào gây bất ổn ở trung đông ?


Sau các cuộc chiến thì thì đất Israel càng to, kết quả của tự vệ, ko phải xâm chiếm. Ko thể so sánh với bọn Nga đi xâm chiếm lập vùng đệm được. Thậm chí đến năm 1949 thì công ước Geneve lần thứ 4 mới quy định cấm tiến hành chiến tranh để chiếm lãnh thổ. Bên phòng thủ được phép giữ lãnh thổ cho tới khi an ninh được đảm bảo. Bán đảo Sinai được trả lại cho Ai Cập sau khi đạt thỏa thuận hòa bình. Còn cao nguyên Golan vẫn giữ vì ko đạt dc thỏa thuận hòa bình với Syria. Cao nguyên này trước đó vốn được dùng để quấy rối Israel. 


ISRAEL từ khi lập quốc đến nay đều thực hiện các cuộc chiến tranh phòng thủ . Chiến tranh phòng thủ không phải là bất hợp pháp nên giành được lãnh thổ từ cuộc chiến ko phải là bất hợp pháp, cũng là để đảm bảo quyền lợi của bên phòng thủ. Việc quân xâm lược ko bị trừng phạt gì sau thất bại có thể là động lực dẫn tới cuộc chiến tiếp theo, Palestine và đám Ả Rập trên bản đảo Sinai kêu ca cái lol 😏😏.


Điều 2, Khoản 4 của Công ước Geneva về bảo hộ thường dân trong chiến tranh (1949):


Điều 2 - Phạm vi bảo vệ


Khoản 4


Các bên trong cuộc xung đột không được tiến hành ,hành vi nào với mục đích là thụ động, trực tiếp hoặc gián tiếp, để tiến hành chiến tranh để chiếm lãnh thổ của một bên khác, cũng như các biện pháp nào khác có tính chất tương tự.


Bên phòng thủ được phép giữ lãnh thổ cho tới khi an ninh được đảm bảo. Israel được phép giữ lại lãnh thổ của kẻ thù xâm lược mình đến khi nào an ninh được đảm bảo . Đây là luật quốc tế. Các con giời kêu cái CC ấy. 


Palestine  từng được chia đất nhưng không chịu, đòi hết 100%, không công nhận nhà nước Do Thái, kéo bè cánh muốn tận diệt Do thái cơ. Israel từng chiếm đóng Gaza gần 40 chục năm , họ chán họtrả lại cho Palestine đó, nó cần yên ổn làm ăn chứ nó cần gì mấy miếng đất hỗn loạn. Vậy mà Palestine vẫn cấu kết với đám Hamat , khủng bố nhà nước Israel ( năm ngoái )


Các ông công nhận quyền đấu tranh của Palestine nhưng sao các ông không công nhận quyền được sống, quyền tự vệ của người Do thái vậy?


Đám palestine, đám Iran - Ả Rập liên tục từ chối quyền hợp pháp của 1 nhà nước Israel độc lập , năm ngoái Iran phá hoại tiến trình đàm phán ở Ả Rập Xê Út tiến tới công nhận Israel là 1 quốc gia độc lập, tôi hỏi thật ,cái đám Palestine muốn Israel thế nào mới chịu ? 


1 dân tộc  như Palestine chỉ ăn với đẻ , năm nào cũng đi xin viện trợ từ phương tây , nhưng liên tục bài xích phương tây, gọi là quỷ sứ, so với Israel- 1 đất nước dân số chưa tới 10 triệu , nền kinh tế và khoa học kỹ thuật mạnh nhất , 1 nhà nước dân chủ , tiến bộ nhất .1 đất nước ở sa mạc nhưng bắt sa mạc phải nở hoa thì đám mọi bên cạnh không có tư cách phê phán . Palestine là lại bộ lạc đống nghĩa chứ nó không phải 1 cộng đồng mang trong mình sự tiến bộ trong tư duy, 1 lọi ăn bám lịch sử , 1 loại bản tính bẩn thỉu, xấu xa của thói ghen ăn tức ở.

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2024

Sự nguy hiểm Của trung quốc trên lục địa Á – Âu - địa chính trị khu vực

 







Từ lâu , từ khi Liên Xô sụp đổ , phía tây của lục địa Á - Âu Nga đang không hề hài lòng với vị trí và tình trạng an ninh của mình ở Đông Âu , trong nhiều thế kỷ chính sách địa chính trị quan trọng nhất của Nga luôn là kiểm soát càng nhiều khu vực trên đồng bằng Đông Âu càng nhiều càng tốt . Đồng Bằng Đông Âu là vùng đồng bằng rộng lớn bằng phẳng bắt đầu từ miền Bắc nước Đức và càng mở rộng hơn về phía đông nước Nga , đồng bằng này có diện tích lên tới hàng nghìn km² , những khi các nước thuộc Liên Xô cũ tách ra . họ đã chạy sang NATO và vào liên minh châu âu , vùng đất đại chính trị của nga ở đông âu không còn nữa , lá chăn cuối cùng của Nga là chỉ còn Ucraina và berarut , đây là 2 tiền đồn vô cùng quan trong với an ninh và không gian địa chiến lược Nga . nếu Nato và Mỹ tiếp tục có được hai nơi này . Mỹ sẽ có thể trực tiếp triển khai sự hiện diện quân sự dọc theo dãy núi Kavkaz . hay là địa hình bằng phẳng của Ukraina có thể được lực lượng của NATO tận dụng để tiến thẳng vào nước Nga bao gồm cả đường tới Matxcơva ngay dưới chân những ngọn núi của dãy Kavkaz là khu vực nhạy cảm nhất của nước Nga vùng đất tự trị checnia . Đây là khu vực có sự khác biệt rất lớn về sắc tộc và tôn giáo với Nga . Nơi này đã trải qua hai cuộc chiến tàn khốc với Nga để giành quyền tự trị trong suốt những năm 1990. Lại nhắc tới Ucraina , Nếu Ukraina gia nhập NaTo việc này sẽ Củng cố sự hiện diện của quân đội Nato và Mỹ trên gần như toàn bộ các nước châu Âu thuộc đồng bằng Đông Âu , Belarus trở thành một pháo đài phòng thủ vô dụng vì bị bao vây bởi toàn bộ là các vùng lãnh thổ do NaTo kiểm soát , năm 2008 trước việc Gruzia tiến quân đánh Nam Ossetia .Nga đã động binh Tiến quân và chiếm đóng khoảng 20% lãnh thổ của Gruzia để chặn lối vào ven biển phía tây của lục địa Á - Âu đồng thời ra cố lớp phòng thủ trước lực lượng của NATO . Sau năm 2014 Nga Tiến Quân vào Ukraina để sát nhập bán đảo crimea nhằm Phong tỏa cánh cổng này trước khi nato tiến vào lục địa Á - Âu từ hướng biển đen đồng thời ngăn cản Ukraina gia nhập NaTo . Năm 2022 Nga đưa quân tấn công phần còn lại Ukraina nhằm nỗ lực đưa toàn bộ hệ thống phòng thủ địa lý chống lại NaTo quay trở lại khu vực trống giữa dãy núi KARPAT ở biển đen nằm sát với Rumani và Ba Lan .

Quay sang phía đông . 1 con rồng hùng mạnh Trung Quốc đang vẫy vùng thoát khỏi vòng kiểm toả của Mỹ , trên sườn phía đông của lục địa Á - Âu mục tiêu địa chính trị lớn nhất của Trung Quốc là giành quyền kiểm soát Đài Loan trong tương lai gần đồng thời đảm bảo nguồn cung ứng năng lượng cần thiết nhằm tiếp tục phát triển nền kinh tế công nghiệp khổng lồ của mình . Cũng giống như Nga đang bị lép vế trên bàn cờ ở Đông Âu thì Trung Quốc nhận thấy rằng Mỹ Chính là trở ngại lớn nhất ngăn cản các mục tiêu to lớn của nước này vươn ra từ phía đông và nam Thái Bình Dương . Trung Quốc sẽ phải đối đầu trực diện với sự phản ứng quân sự của Mỹ và các đồng minh khi tấn công Đài Loan , trong khi đó các đảo quốc lân cận như Nhật Bản Hàn Quốc và Philippines cũng như Đài Loan đều là các đồng minh lớn của Mỹ ngoài NaTo, không những thế Ấn Độ Nhật Bản và Úc cũng là các bên hợp lực cùng với Mỹ tạo nên bộ tứ kim cương một tổ chức quân sự chính trị đối đầu với TQ .Trung Quốc tranh chấp lãnh thổ , vùng biển đảo , vùng trời với toàn bộ các quốc gia lân cận .

Trung Quốc và Nga có cùng 1 suy nghĩ rằng , họ đang bị Mỹ và Đồng minh chặn mọi lối ra của họ , nhốt cả 2 trong 1 vùng địa lý không có sức phát triển . nhưng việc Nga Bắt tay liên minh với Trung Quốc có phải là 1 canh bạc cả 2 đều thắng ? tôi nghĩ là không và Nga đang bắt tay với 1 con rồng rất khát máu và hùng mạnh .

Từ năm 1961 đến nay , kinh tế TQ đã tăng trưởng gấp 255 lần với lượng dự trữ ngoại hối kinh khủng khiếp ở mức 3100 tỷ đô , ngân sách quốc phòng mỗi năm đạt 18% ( năm 1961 GDP TQ đạt 61 tỷ đô , 2021 GDP TQ đã là 16 ngàn tỷ đô ) để phục vụ cho 1 nền kinh tế lớn như TQ ( TQ trong 20 năm qua tốc độ tăng trưởng đều trên 10 % ) Trung Quốc nhập khẩu rất nhiều dầu khí qua vịnh Ba Tư và con đường vận chuyển phải đi qua eo biển malacca và điều này đã trở thành điểm yếu chí mạng của Trung Quốc mà Mỹ nắm được , nhưng tình hình của Nga hoàn toàn ngược lại, so với Trung Quốc nền kinh tế của Nga có quy mô nhỏ hơn so với các nước khác , năm 2023 toàn bộ quy mô nền kinh tế của Nga còn nhỏ hơn cả thành phố New York Thậm chí còn nhỏ hơn nếu so với tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc , Nga có ít đơn đặt hàng từ các đối tác nhập khẩu hơn Trung Quốc và dân số cũng kém gấp 10 lần , nhưng những gì mà Nga có lại là một nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ mà Trung Quốc đang thèm khát , Nga có mọi loại Tài nguyên mà TQ cần cho sự phát triển của nền kinh tế . trớ trêu thay các nguồn tài nguyên của nga lại đều nằm ở phần phía bắc giáp Trung Quốc và phần châu Á của Nga , đó chính là khu vực SIBERIA , nó tương đối gần với vùng công nghiệp khổng lồ của Trung Quốc , bản thân của Nga chưa bao giờ có đủ nguồn lực cũng như lực lượng dân số cần thiết để có thể khai thác nguồn tài nguyên này bởi đó là vùng Viễn Đông xa xôi và kém phát triển , cách xa trung tâm dân số và kinh tế của Nga ở Đông Âu . Tuy nhiên nếu được bổ sung nguồn nhân lực và nguồn vốn khổng lồ của Trung Quốc , Nga thật sự có thể thực hiện hóa điều đó ,Trung Quốc có thể cung cấp cho Nga nguồn vốn mà nước này cần có để tiếp tục trận chiến đẩy lùi quyền bá chủ của Mỹ ở Đông Âu và Nâng tầm chiến lược kiểm soát của Nga trên lục địa Á - Âu thông qua các quốc gia như Ukraina và mondova đồng thời Trung Quốc nhận về các nguồn tài nguyên khổng lồ của Nga thông qua các đường ống dẫn hay là vận chuyển bằng đường sắt , nhờ đó nước này có thể giảm dần sự phụ thuộc quá mức vào việc nhập khẩu tài nguyên qua vùng eo biển Malacca từ đó quyết liệt hơn trong việc đẩy lùi quyền bá chủ của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mang lại cho Trung Quốc khả năng ứng biến linh hoạt hơn nếu Tiến chiếm Đài Loan đồng thời có thể nắm Đài Loan trong lòng bàn tay

Xét về mặt lịch sử , TQ và Nga chưa bao giờ được gọi là bạn bè , Nga và TQ có thể gọi là cựu thù của nhau thì đúng hơn , thời nhà Thanh , TQ đã ký 1 hiệp ước 100 năm không quên , được xem là nỗi ô nhục nhất của TQ đó là cắt đến 1 triệu km² đất cho Nga gọi là vùng ngoại Mãn Châu hay ở Nga gọi là vùng premaki .Nhà thanh Miễn Cưỡng đành nhượng bộ và đồng ý ký kết hiệp ước ái hồn vào năm 1858 để nhượng lại vùng đất khổng lồ tương đương với diện tích của Ukraina cho Nga Vậy là không tốn một viên đạn nào Nga Nghiễm nhiên sở hữu vùng đất mà về sau đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với Nga .hiệp ước này TQ không bao giờ quên , và đang có tiếng nói rất lớn rằng, TQ phải tìm cách lấy lại bằng cách này hay cách khác , tất nhiên đây chưa phải là những khác biệt về chính trị giữa 2 nước .



khu vực ngoại mãn châu sẽ là cơn đau đầu tiếp theo của Nga ở viễn đông 




Sau khi Liên Xô sụp đổ , có 5 quốc gia mới tách ra độc lập ở Trung á sau hàng trăm năm dưới quyền cai trị của người Nga trong nhiều thập kỷ,kể từ đó hầu hết các nước này đã rời xa Nga để xích lại gần với Trung Quốc hơn , Trung Quốc đã dành nhiều năm để xây dựng sáng kiến vành đai và con đường nhằm Tìm cách khôi phục tuyến đường Thương mại Con Đường Tơ Lụa cổ xưa chạy qua Trung á , khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên mà Trung Quốc đang thèm khát , dưới sự Hậu thuẫn của Trung Quốc các đường ống dẫn dầu và khí đốt được xây dựng từ các quốc gia giàu tài nguyên dầu mỏ và khí đốt như Uzbekistan và Kazakhstan các đường ống này đều chảy về phía đông để đi tới Trung Quốc , Trung Quốc hiện đang nhập khẩu khoảng 15%, tổng nhu cầu tiêu thụ khí tự nhiên từ các nước này , Trung Quốc hiện là khách hàng lớn nhất của turkmenistan và Uzbekistan trong việc nhập khẩu khí đốt tự nhiên từ hai nước này .Đây là hai quốc gia từng năm dưới quyền cai trị của Nga , Nhưng hiện đang cạnh tranh trực tiếp để chạy đua với Nga Trong việc buôn bán khí đốt tự nhiên cho Trung Quốc , mà đây lại là thị trường lớn duy nhất của Nga ,bởi hiện tại thị trường của Nga ở châu Âu đã phần lớn bị đóng cửa vì cuộc chiến với Ukraina , TQ đã vượt qua Nga trở thành đối tác lớn nhất của tất cả các quốc gia Trung Á , vốn là sân sau và là vùng ảnh hưởng địa chính trị của Nga . trong nhiều thế kỷ mục tiêu lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Nga là kiểm soát về mặt địa lý tại khu vực Trung á khu vực này chứa đựng một trong những con đường lịch sử quan trọng nhất để tiến vào lục địa Á -Âu đó là khoảng trống bằng phẳng thuộc Uzbekistan nằm xen kẽ giữa sa mạc karakun ở phía tây và dãy núi Thiên Sơn ở phía đông , Mặt khác Nga cũng cần đáp ứng các lợi ích ngày càng tăng của Trung Quốc , Bởi vì sau khi Liên Xô sụp đổ các mục tiêu của Trung Quốc ở Trung á không chỉ đơn giản là giành được nguồn trữ lượng dầu mỏ dồi dào nằm trong khu vực , màTrung Quốc còn muốn ổn định tỉnh Tân Cương đang hỗn loạn, đây là một trong những khu vực bất ổn nội bộ mà Nguồn gốc đến từ sự khác biệt về sắc tộc và tôn giáo , khiến Trung Quốc bao phen đau đầu . năm 2012 Trung Quốc đã lập căn cứ ở Tajkistan , ở hành lang wakan là khu vực nằm đối diện với biên giới của Trung Quốc , Mục đích là cách ly giải đất hẹp của Afghanistan khỏi Biên Giới cụ thể là ngăn chặn sự phát triển của các nhóm chiến binh hồi giáo và nguồn vũ khí nguy hiểm chảy từ Afghanistan và Pakistan vào Tân Cương , một nước như Tajkistan vừa là thành viên của liên minh quân sự CSTO do Nga đứng đầu , vừa là nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ nhưng lại bí mật cho phép một cường quốc nước ngoài tiếp cận để triển khai căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình là một sự sỉ nhục nghiêm trọng đối với Nga , đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Nga không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận tình trạng thực tế mới trong khu vực và vị thế hùng mạnh của Trung Quốc trong khu vực.

Nhưng vấn đề nghiêm trọng của Trung Quốc đặt ra với Nga đó chính là nguồn tài nguyên nước . dân số trung quốc chiếm 20% dân số thế giới , nhưng Trung Quốc chỉ có 7% nguồn nước ngọt quý báu , và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng trong quá trình đô thị hoá ,80% nguồn nước Trung Quốc cần nằm ở miền nam Tây Tạng , các vùng đông dân nhất đơn giản như Bắc kinh hay Thiên tân có dân số hơn 400 triệu dân lại ở phía bắc với lượng nước rất ít ỏi tính theo đầu người , những nguồn nước lớn nhất mà Trung Quốc muốn tiếp cận để dẫn xuống miền đông và nam lại nằm ở chân dãy núi Hy Mã Lạp Sơn , những vùng đất này thuộc quyền kiểm soát của Ấn Độ , Nepal , Butan tất cả những nước này đều ghét Trung Quốc từ hàng thế kỹ nay .Trung Quốc sẽ không dễ lấy cắp được tài nguyên nước của những nước này vì sự hậu thuẫn của Ấn Độ . đối với Ấn Độ mà nói , với dân số đã vượt qua Trung Quốc , họ không đời nào chấp nhận mất 1 giọt nước nào vào tay Trung Quốc .

Thật khốn nạn thay cho Nga , khu vực hạn hán nặng nhất của Trung Quốc lại rất gần 1 mỏ nước lớn nhất trên hành tinh này , đó chính là hồ nước ngọt lớn nhất thế giới , hồ BaiKan , với thể tích lớn nhất trên thế giới , chứa ¼ lượng nước ngọt trên toàn bộ bề mặt trái đất , đủ để duy trì cho toàn bộ dân số trái đất dùng trong 50 năm . Trung Quốc đã để ý đến cái hố vàng này , những công ty khai thác nước đã đến và đang thương thảo việc mở đường ống dẫn nước từ hồ này đến miềm bắc Trung Quốc , nhưng bị chính phủ Nga từ chối , nhưng trong tương lai , chắc chắn Trung Quốc phải quay lại đây vì đó là nguồn sống duy nhất cho hàng triệu km vuông đất miền bắc của Trung Quốc , Trung Quốc sẽ ngày càng ráo riết hơn quan tâm tới nguồn trữ lượng nước và năng lượng khổng lồ ở vùng Viễn Đông thưa thớt của Nga , hiện nay chỉ có 8 triệu người Nga sinh sống trên toàn Viễn Đông và một nửa trong số đó cư trú ngay trong vùng ngoại mãn châu , trong khi đó hơn 109 triệu người Trung Quốc là chỉ sinh sống trong ba tỉnh của Trung Quốc giáp với vùng viễn Đông Nga , với tỷ lệ người Trung Quốc và Nga là 13/1 , Nga đang bị Trung Quốc xâm lược bằng nhân khẩu học , chỉ trong 5 năm nữa , lượng dân nga ở viễn đông sẽ lại giảm 1 nữa tức chỉ hơn 4 triệu người so với hàng 100 triệu người Trung Quốc . khi Nga ngày càng phụ thuộc nhiều hơn và Trung Quốc để có được nguồn vốn và nguồn lao động, để phát triển các nguồn tài nguyên ở viễn Đông, phần lớn sản phẩm làm ra chủ yếu là xuất khẩu sang Trung Quốc và phụ thuộc hơn vào nguồn tiền chảy về từ Trung Quốc , để vận hành đất nước, làm như vậy chỉ càng đưa Nga trở thành đối tác cấp dưới của Trung Quốc trên trường quốc tế và Nga sẽ ngày càng trở nên lu mờ trước Trung Quốc , hiện tại Nga đang là người cần Trung Quốc hơn trong mối quan hệ này nên Trung Quốc sẽ là nước Quyết định mức độ và tiến trình của mối quan hệ hợp tác giữa hai bên, Chừng nào cả hai nước còn có kẻ thù chung là Mỹ hay vẫn phải đau đớn lo lắng về những tiền tuyến quan trọng ở Đông Âu , ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thì họ vẫn phải hợp tác chặt chẽ với nhau . Nga thì không còn lựa chọn nào khác, Trung Quốc thì muốn đảm bảo an ninh cho khu vực sườn phía bắc và tiếp tục dang bàn tay vơ vét nguồn tài nguyên giá rẻ của Nga và Trung á nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu năng lượng và eo biển malaca . sớm muộn rằng , 1 con dao đang kè vào cổ Nga từ Phía Trung Quốc . càng thân với Trung Quốc , Nga càng nhanh chết . thật sự là 1 nghịch lý của thời đại .

Tôi muốn viết 1 câu kết thật đẹp cho Trung Quốc khi muốn đánh bại Mỹ để vươn lên trở thành siêu cường toàn cầu chứ không phải siêu cường châu Á . muốn lật đổ được mỹ thì phải đánh bại được nhân tố mỹ hay rộng hơn là nhân tố mang tính phổ quát của phương tây . nó được gọi là ‘’ trật tự phương tây “

Trật tự phương tây hậu chiến 1945 là độc nhất về mặt lịch sử , bất kỳ trật tự quốc tế nào do một cường quốc chế Ngự đều dựa trên sự kết hợp giữa cưỡng chế và đồng thuận , nhưng trật tự do Mỹ lãnh đạo nó khác biệt ở chỗ nó có tính tự do hơn là tính đế quốc và do đó dễ tiếp cận hơn , chính thống và bền vững với các luật lệ và thể chế của nó được xây dựng và củng cố bằng các lực lượng dân chủ và chủ nghĩa tư bản liên tục cải tiến . Đó là một sự bao quát cởi mở với số lượng thành viên và các bên có lợi ích liên quan ngày càng được mở rộng nó có khả năng tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về kinh tế và quyền lực trong khi đó cũng phát huy những tín hiệu của sự ràng buộc ,tất cả các yếu tố này khiến cho trật tự này dễ dàng tham gia nhưng khó lòng mà phá vỡ . Trước khi chiến tranh lạnh chia rẽ thế giới thành hai phe đối đầu, Mỹ đã dựng lên một hệ thống , một thế giới do các cường quốc phối hợp điều hành với mục tiêu tái thiết Châu Âu bị chiến tranh tàn phá và xây dựng lên một cơ chế hợp tác an ninh và phát triển kinh tế rộng khắp , trong hơn nửa thế kỷ tiếp theo, Mỹ đã sử dụng một cách hiệu quả hệ thống luật lệ và thể chế do chính mình xây dựng nên , hội nghị Breton woods 1944 đã đặt nền móng cho 1 thế giới vận hành hoàn toàn khác và 1 nền kinh tế tài chính thế giới , Những thỏa thuận bổ sung giữa Mỹ - Tây Âu và Nhật Bản củng cố vững chắc tính chất mở và đa phương của nền kinh tế thế giới thời Hậu Chiến , Sau khi chiến tranh lạnh bắt đầu kế hoạch tái thiết ở châu Âu và hiệp ước an ninh 1951 giữa Mỹ và Nhật Bản đã góp phần hợp nhất các cường quốc bại trận của phe trục vào trật tự của phương tây , trong những ngày cuối cùng của chiến tranh lạnh , hệ thống này một lần nữa chứng minh sự thành công ấn tượng của mình khi Liên Xô suy yếu và tan rã , trật tự của phương Tây đã cung cấp một loạt các quy định và thể chế vốn mang đến cho các nhà lãnh đạo Liên Xô sự trấn An và các điểm tiếp cận khuyến khích họ trở thành một phần của hệ thống . Không những vậy sự chia sẻ và vai trò lãnh đạo cũng đã đảm bảo cho sự thích nghi của Liên Xô và sau này là Nga .

Có 3 yếu tố dẫn đến sự hùng mạnh là trường tồn của trật tự phương tây .

Thứ 1 : không giống như các hệ thống đế quốc trong quá khứ , trật tự phương tây được xây dựng trên các cơ sở luật lệ, và quy tắc không phân biệt đối xử, và mở cửa thị trường tạo điều kiện cho các quốc gia mới nổi đẩy mạnh việc thực hiện những mục tiêu kinh tế và chính trị của mình trong khuôn khổ của hệ thống.

Thứ 2 : Đó là đặc tính lãnh đạo dựa trên sự liên minh của trật tự này , những trật tự trong quá khứ thường có khuynh hướng chỉ do một quốc gia chi phối các bên có lợi ích liên quan ,trong trật tự của phương tây hiện tại bao gồm một liên minh các cường quốc dàn hàng xung quanh Mỹ đây là điểm khác biệt quan trọng .

thứ 3: Trật tự phương tây hậu chiến có hệ thống quy tắc và thể chế đặc biệt chặt chẽ bao quát và được chấp nhận rộng rãi. Mặc dù có thể còn có những hạn chế ,nhưng trật tự này thật sự mang tính mở và dựa trên luật lệ hơn bất kỳ Trật tự nào trước đó ,chủ quyền quốc gia và pháp quyền không chỉ là chuẩn mực được Thượng tôn trong Hiến pháp của Liên Hợp Quốc,mà còn là một bộ phận mềm của nền tảng logic vận hành của trật tự phương tây , điều chắc chắn là những quy tắc này ngày càng tiến triển và chính bản thân nước Mỹ về mặt lịch sử cũng phải chịu sự ràng buộc này .

Việc Trung Quốc là siêu cường đúng nghĩa toàn cầu là điều Không bao giờ xảy , khi và chỉ khi nền tảng logic của Trung Quốc không thể đánh bại được giá trị phương tây . cần 1 thời gian rất dài và cần 1 sự tin tưởng đủ lớn , lúc đó Trung Quốc mới tập hợp đủ sức mạnh tập thể để đối trọng với trật Tự phương tây , ngày đó , có lẽ còn rất xa …

Và như câu nói đã trở nên nổi tiếng của Zbigniew Brzezinski : nước Mỹ không chỉ là siêu cường thực sự toàn cầu đầu tiên mà còn là cuối cùng trên trái đất …

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2024

Tầm Quan trọng của Ấn Độ ở Biển Ấn ĐỘ Dương - Thái Bình Dương

 


Ấn Độ Dương là đại dương có diện tích lớn thứ ba trên thế giới, bao phủ 75.000.000 km vuông hay 19,8% diện tích mặt nước trên Trái Đất Đại dương này được giới hạn bởi bán đảo Ấn Độ, Pakistan và Iran về hướng Bắc, bởi Đông Nam Á , cụ thể là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và châu Đại Dươngvề hướng Đông, cũng như bởi bán đảo Ả Rập và châu Phi về phía Tây. Ấn Độ Dương mở tại hướng Nam và giáp Nam Băng Dương . Australia, Indonesia và Ấn Độ là ba quốc gia có đường bờ biển dài nhất và đặc khu kinh tế lớn nhất. Thềm lục địa chiếm 15% diện tích Ấn Độ Dương. Hơn 2 tỉ người sinh sống ở các quốc gia giáp với Ấn Độ Dương, con số này là 1,7 tỉ với Đại Tây Dương và 2,7 tỉ với Thái Bình Dương.
Biển Ấn Độ Dương kết nối 5 châu lục trên thế giới . Vị trí của nó cùng với eo biển malacca là điểm thắt cổ chai đối với an ninh kinh tế và Chiến lược hải quân Trên 2 Châu Lục Châu Âu và Châu Á .
Nói đến đại dương thế giới thì phải nói đến những vị trí chiến lược về địa kih tế - chính trị - An ninh khu vực được định hình và kiểm soát bởi các eo biển chiến lược .
Ví Dụ : Eo biển Tsushima, còn được gọi là Kênh phía Đông của Eo biển Triều Tiên, nằm ở ngã tư quan trọng của Đông Bắc Á, nơi có một số nền kinh tế lớn nhất thế giới, như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. là eo biển chặn Hải Quân Nga ở Viễn Đông Tiếp cận với các vùng biển của Nhật Bản và Thái Bình Dương . đóng vai trò là cửa ngõ vào Biển Nhật Bản, khu vực được coi là cửa hậu chiến lược để Nga và Trung Quốc can dự vào khu vực này. Đây là một tuyến hàng hải quan trọng đối với cả bốn quốc gia và các tuyến vận tải biển nối châu Á với châu Âu, làm cho eo biển này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh địa chính trị của Đông Bắc Á, với hàng triệu tấn hàng hóa đi qua mỗi năm. Điều này làm cho eo biển Tsushima trở thành một nút thắt quan trọng đối với thương mại toàn cầu, đặc biệt là đối với các quốc gia G20.






Eo biển chiến lươc Miyako : là eo biển giữa đảo Miyako ở phía nam và đảo Okinawaở phía bắc trong chuỗi đảo Ryukyu của Nhật Bản.
Eo biển Miyako rộng khoảng 300 cây số và là hải lộ trọng yếu thông biển Hoa Đông và Thái Bình Dương. Là chốt chặn đặc biệt quan trọng giúp khoá chặn Hải Quân Trung Quốc thoát ra ngoài chuỗi đảo đầu tiên , tiến ra Thái Bình Dương .
đánh giá : tuyệt đối quan trọng trong giải pháp Đối phó với hải quân Trung Quốc tấn công Đài Loan .
Eo biển địa chiến lược – kinh tế Hormuz : Đây là eo biển có tầm quan trọng chiến lược quan trọng. Với chiều rộng 40km tại điểm hẹp nhất, chiều dài 50km và độ sâu không quá 60m, eo biển Hormuz là nơi trung chuyển gần 21 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, tương đương ¼ lượng dầu nhập khẩu trên thế giới. eo biển này nằm ở giữa bán đảo Musandam của Oman và cảng Bandar Abbas của Iran. Eo biển này được đặt theo tên của đảo Hormuz thuộc Iran. Mỗi ngày có khoảng 100 tàu ​​chở dầu đi qua eo biển này để vận chuyển dầu hoặc khí tự nhiên hóa lỏng. Hầu hết các nguồn nhiên liệu này được sản xuất và cung cấp bởi các quốc gia Vịnh Ba Tư
Eo biển Malacca : eo biển này nằm trên tuyến giao thông cực kì quan trọng, vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ Châu Âu, Châu Phi, Nam Á, Trung Đông đi Đông Nam Á, Đông Á. Đây là nơi chiếm 1/4 lượng giao thông hàng hải thế giới hàng năm. 11 triệu thùng dầu hàng năm phải đi qua eo biển này : vô cùng quan trong trong giao dịch thương mại và địa chính trị quân sự Châu Âu và Châu Á ;
Nói như vậy để chúng ta biết rằng đối với đại dương thế giới có những eo biển chiến lược nhưng ngoài ra hải dương thế giới còn có những hòn đảo có vai trò còn hơn cả 1 eo biển , nó hoàn toàn khống chế được toàn bộ các tuyến hải trình đi qua khu vực .
Ví Dụ ; ở biển Đông có Hoàng Sa và Trường Sa . 2 quần đảo nào là hòn đá tảng đặt vào giữa vùng biển này , là chốt chặn tiền tiêu ngăn hải quân Trung Quốc hoạt động ở toàn bộ khu vực biển đông , biển Philippin và vịnh bắc bộ Việt Nam . Vô cùng quan trọng .
Ở ẤN ĐỘ DƯƠNG CÓ ĐẢO ANDAMAN VÀ NICOBA . ĐÂY LÀ 2 HÒN ĐẢO NẰM GIỮA ẤN ĐỘ DƯƠNG CÓ VỊ TRÍ KHÔNG THỂ THAY THẾ TRONG CƠN TRANH GIÀNH ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC , BÊN CẠNH ĐÓ LÀ ĐẢO DIEGO GARCIA , 1 ĐẢO CHIẾN LƯỢC VÀ LÀ VÙNG LÃNH THỔ HẢI NGOẠI CỦA VƯƠNG QUỐC ANH Ở ẤN ĐỘ DƯƠNG , NƠI ĐÂY ĐƯỢC COI LÀ CƠ SỞ QUÂN SỰ CHIẾN LƯỢC QUAN TRỌNG VÀ TUYỆT MẬT CỦA MỸ TẠI KHU VỰC.
EO BIỂN VÀ ĐẢO LUÔN CÓ NHỮNG TẦM QUAN TRỌNG ĐẶC BIỆT TRONG KHỐNG CHẾ HÀNG HẢI , CÓ QUAN TRỌNG BỞI VÌ VỊ TRÍ CỦA NÓ , VÀ CÁC VÙNG NƯỚC THUỘC ĐẶC QUYỀN KINH TẾ CỦA NÓ TẠO RA .
ẤN ĐỘ ĐẶC BIỆT QUAN TÂM ĐẾN 2 HÒN ĐẢO NÀY TRONG BỐI CẢNH TRUNG QUỐC ĐANG RÁO RIẾT KÌM TOẢ SỨC ẢNH HƯỞNG CỦA ẤN ĐỘ TRÊN 2 CHÂU LỤC BẰNG DỰ ÁN “ CHUỖI NGỌC TRAI TRÊN BIỂN ”, CHÍNH VÌ SỰ QUAN TRỌNG CỦA VÙNG BIỂN NÀY MÀ ẤN ĐỘ ĐÃ THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY ANDAMAN VÀ NICOBAR (ANC) LÀ ĐIỂM ĐÁNH DẤU QUAN TRỌNG VỀ SỰ HIỆN DIỆN CHIẾN LƯỢC CỦA ẤN ĐỘ Ở ĐÔNG ẤN ĐỘ DƯƠNG .
QUẦN ĐẢO ANDAMAN-NIKOBA NẰM Ở PHÍA NAM MYANMAR, GIỮA VỊNH BENGAL VÀ BIỂN MYANMAR (BIỂN ANDAMAN), CÁCH ĐẤT LIỀN ẤN ĐỘ 800 KM. QUẦN ĐẢO NÀY GIÁP SUMATRA Ở INDONESIA, EO ĐẤT KRA Ở THÁI LAN VÀ BÁN ĐẢO MÃ LAI. NÓ KIỂM SOÁT TUYẾN ĐƯỜNG THỦY QUAN TRỌNG TỪ THÁI BÌNH DƯƠNG ĐẾN ẤN ĐỘ DƯƠNG QUA EO BIỂN MALACCA. TUYẾN ĐƯỜNG THỦY NÀY KHÔNG CHỈ QUAN TRỌNG TRONG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI MÀ CÒN LÀ CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ MỸ, TRUNG QUỐC, NHẬT BẢN VÀ CÁC NƯỚC KHÁC MỞ RỘNG SỨC MẠNH HÀNG HẢI CỦA MÌNH TỚI ẤN ĐỘ DƯƠNG. TRƯỚC THẾ KỶ 21, ẤN ĐỘ KHÔNG CHÚ Ý NHIỀU ĐẾN KHU VỰC DO SỨC MẠNH HẢI QUÂN KHÔNG ĐỦ VÀ TRỌNG TÂM PHÒNG THỦ CHÍNH LÀ PAKISTAN. TUY NHIÊN, DO TẦM QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC CỦA TUYẾN ĐƯỜNG THỦY QUẦN ĐẢO ANDAMAN-NIKOBA NGÀY CÀNG TRỞ NÊN NỔI BẬT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ SỨC MẠNH HẢI QUÂN CỦA ẤN ĐỘ TIẾP TỤC GIA TĂNG, ẤN ĐỘ ĐÃ BẮT ĐẦU TĂNG CƯỜNG TRIỂN KHAI QUÂN ĐỘI VÀ KIỂM SOÁT QUÂN SỰ TRONG KHU VỰC NHẰM NỖ LỰC TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG KIỂM SOÁT QUÂN SỰ. SỰ CÓ MẶT CỦA ẤN ĐỘ TẠI TUYẾN ĐƯỜNG THỦY VÀNG NÀY SẼ TĂNG VỊ THẾ CHIẾN LƯỢC CHO ẤN ĐỘ KHÔNG NHỮNG TRONG KHU VỰC VÀ CÒN TRÊN TUYẾN ĐƯỜNG BIỂN KẾT NỐI 5 CHÂU LỤC MANG TÊN ẤN ĐỘ DƯƠNG .






THẬT VẬY VỊNH BENGAL ĐÃ NỔI LÊN NHƯ MỘT KHU VỰC QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VÀ CÁC CÔNG TY TRUNG QUỐC ĐÃ ĐƯỢC GIAO NHIỆM VỤ THIẾT LẬP CƠ SỞ HẠ TẦNG VẬN TẢI, NĂNG LƯỢNG, CẢNG VÀ ĐƯỜNG BỘ QUAN TRỌNG Ở CÁC QUỐC GIA LÁNG GIỀNG CỦA ẤN ĐỘ, ĐIỀU NÀY ĐANG GÂY LO NGẠI CHO ẤN ĐỘ. VÌ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO BẪY NỢ CÓ LIÊN QUAN. NGOÀI RA, HOẠT ĐỘNG NGÀY CÀNG TĂNG CỦA TÀU, TÀU NGẦM VÀ CÁC TẦU NGẦM KHÔNG NGƯỜI LÁI CỦA TRUNG QUỐC TRONG KHU VỰC ĐANG GÂY RA MỐI ĐE DỌA TRỰC TIẾP CHO NỀN KINH TẾ VÀ AN NINH CỦA ẤN ĐỘ VÀ VIỆC CÓ MỘT GIẢI PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI ĐIỀU NÀY ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT NHU CẦU CẤP THIẾT ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ.
ẤN ĐỘ HIỆN ĐANG CÓ NHIỀU VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT. CÁC VẤN ĐỀ NHƯ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC VẤN ĐỀ VỀ AFGHANISTAN, PAKISTAN, TRUNG QUỐC, SỰ BẤT ỔN Ở KHU VỰC ẤN ĐỘ DƯƠNG - THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ ẤN ĐỘ DƯƠNG, ĐỀU SẼ ẢNH HƯỞNG NGHIÊM TRỌNG ĐẾN AN NINH VÀ ỔN ĐỊNH ĐỊA KINH TẾ-CHÍNH TRỊ CỦA ẤN ĐỘ. TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI UY TÍN TOÀN CẦU CỦA ẤN ĐỘ CŨNG CÓ THỂ LÀ ĐÁNG KỂ VÀ VIỆC XỬ LÝ KHÉO LÉO TÌNH HÌNH SẼ LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ. ẤN ĐỘ ĐẶC BIỆT LO NGẠI CÁC KHOẢN ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH MANG TÍNH CƯỚP BÓC CỦA TRUNG QUỐC VÀO CÁC QUỐC GIA NHƯ BANGLADESH, MYANMAR, SRI LANKA ĐÃ LÀM THAY ĐỔI TÍNH TOÁN ĐỊA CHIẾN LƯỢC CỦA ẤN ĐỘ TRÊN CẢ LỤC ĐẠI TIỂU ẤN ĐỘ VÀ TRÊN KHẮP VÙNG BIỂN ẤN ĐỘ ĐƯƠNG VÀ BIỂN ĐÔNG . NGOÀI RA, CÁC VẤN ĐỀ NHƯ DỰ ÁN CHUỖI NGỌC TRAI CỦA TRUNG QUỐC, MỐI QUAN HỆ TRUNG QUỐC-PAKISTAN NHƯ MỘT PHẦN CỦA VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG VÔ TẬN (CẢNG GWADAR, HÀNH LANG KINH TẾ TRUNG QUỐC-PAKISTAN (CPEC) SẼ ĐẶT RA NHỮNG VẤN ĐỀ RIÊNG CHO ẤN ĐỘ. HIỆP ƯỚC KINH TẾ (RCEP) DO TRUNG QUỐC DẪN ĐẦU SẼ CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ.
Đối phó với những thách thức trên biển và khống chế tuyến hàng hải chiến lược trị giá 3 ngàn tỷ đô chạy đến eo biển Malacca , Ấn Độ phải kiểm soát chặt 2 hòn đảo chiến lược Andaman và Nicobar . Là một trong những chuỗi đảo có vị trí chiến lược nhất trên thế giới. Những hòn đảo này tạo thành một phần quan trọng của một quần đảo duy nhất trong Vịnh Bengal và biển Andaman . Xét về vị trí, trải dài trên các tuyến đường biển quan trọng, chúng rất quan trọng đối với lợi ích chiến lược của Ấn Độ. Là không gian hàng hải chung giữa Ấn Độ và Đông Nam Á, Vịnh Bengal và biển Andaman liền kề chắc chắn là yếu tố then chốt cho các hoạt động chiến lược và sức mạnh hàng hải của bán đảo Ấn Độ.
Những nỗ lực không ngừng nghỉ của Trung Quốc nhằm mở rộng sự hiện diện của mình ở khu vực Ấn Độ Dương, vượt qua tình thế tiến thoái lưỡng nan Malacca mà Trung Quốc đang tìm giải pháp thay thế nhưng tiến triển rất chậm để thực hiện tham vọng Con đường tơ lụa trên biển, đã làm dấy lên những lo ngại về các khía cạnh kinh tế, hàng hải và an ninh chiến lược ở những vùng biển này. Do đó, các quốc gia ven biển cũng như các cường quốc toàn cầu đã tìm kiếm sự hợp tác an ninh với Ấn Độ để đảm bảo sự di chuyển tự do dọc theo SLOC. Trên nền tảng này, vị trí chiến lược của Quần đảo Andaman và Nicobar khiến chúng rất phù hợp để đóng vai trò là điểm nút trong các mối hợp tác như vậy.
Việc kiểm soát những hòn đảo chiến lược ở biển Andaman và các đảo của nó đặt dưới sự chỉ huy độc lập của bộ chỉ huy Andaman mang đến những lợi ích chiến lược như :
1: Kiểm soát các tuyến vận tải biển quan trọng toàn cầu :
Vùng ảnh hưởng của 2 hòn đảo này có ý nghĩa sâu sắc về mặt lịch sử, văn hóa, tôn giáo, kinh tế và thương mại, vùng đặc quyền kinh tế, quan hệ chính trị và quốc tế, an ninh quốc gia, an toàn và tự do hàng hải và triển khai sức mạnh của các nước trên thế giới , không chỉ có Ấn Độ mà còn của các quốc gia khác ở Nam Á và Đông Nam Á, cũng như thương mại quốc tế trị giá 3 nghìn tỷ đô đi qua phía nam Biển Andaman. Sự giám sát của 2 đảo này đối với cửa ngõ Viễn Đông bao gồm đặc quyền kinh tế của Ấn Độ ở Vịnh Bengal, được kết nối với Eo biển Malacca. Những nơi này được hơn 94.000 tàu buôn vượt qua mỗi năm, vận chuyển 40% lượng hàng hóa vận chuyển hàng hóa trên thế giới đến và đi từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Quần đảo Andaman và Nicobar chiếm 0,2% đất đai của Ấn Độ và 30% vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
2 :Kiểm soát các điểm huyết mạch vận chuyển quan trọng :
Vì khu vực này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Ấn Độ và vùng ảnh hưởng của ANC nối Ấn Độ Dương với Biển Đông và Thái Bình Dương nên sự an toàn của eo biển Malacca là mối quan tâm hàng đầu đối với nền kinh tế của nền kinh tế thế giới
3 : Nhân rộng lực lượng trong liên minh QUAD :
Đối thoại An ninh Tứ giác (QUAD), một cuộc đối thoại chiến lược giữa Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, nhằm mục đích chống lại rủi ro đối với thương mại và an ninh hàng hải cũng như các quốc gia trong và xung quanh khu vực này. Đây là 1 trong những nền tảng của liên minh đa quốc gia cùng Ấn Độ để khống chế Trung Quốc , chiếm vị trí vô cùng quan trong trong chính sách đối ngoại của Ấn .
4 : Quyền lực cứng và mềm địa chiến lược trong lịch sử và đương đại :
Ảnh hưởng văn hóa lịch sử của Ấn Độ đối với các vương quốc Phật giáo-Ấn Độ giáo được Ấn Độ hóa ở Đại Ấn Độ, bao gồm cả Andaman và Nicobar như một khu vực tập trung quan trọng đã lan rộng khắp Indonesia , Malaysia , Thái Lan ,Đông Dương và Myanmar . Quyền lực mềnh về tôn giáo bao trùm lên 1 khu vực có dân số 250 triệu người ở các khu vực này .Vùng ảnh hưởng của nó là một phần của Đại Ấn Độ lịch sử, nơi có nhiều vương quốc Ấn Độ giáo-Phật giáo hóa đã từng tồn tại .
5 :Bao vây dẫn đầu phát triển cảng :
ĐỂ TĂNG CƯỜNG KẾT NỐI KHU VỰC, THƯƠNG MẠI, AN TOÀN, AN NINH VÀ BẢO VỆ EO BIỂN MALACCA. ẤN ĐỘ ĐANG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CẢNG CHIẾN LƯỢC TRONG VÙNG ẢNH HƯỞNG CỦA 2 ĐẢO CHIẾN LƯỢC NÀY , CỤ THỂ LÀ CẢNG CHITTAGONG Ở BANGLADESH VỚI KẾT NỐI ĐƯỜNG SẮT ĐẾN TRIPURA, CẢNG MONGLA Ở BANGLADESH, CẢNG SITTWE NHƯ MỘT PHẦN CỦA DỰ ÁN VẬN TẢI QUÁ CẢNH ĐA PHƯƠNG THỨC KALADAN Ở MYANMAR, VÙNG BIỂN SÂU CẢNG BIỂN SABANG THUỘC QUAN HỆ ĐỐI TÁC KINH TẾ VÀ QUÂN SỰ CHIẾN LƯỢC GIỮA ẤN ĐỘ VÀ INDONESIA. ĐIỀU NÀY ĐANG ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG BỞI CÁC DỰ ÁN SAGAR MALA CỦA ẤN ĐỘ, NHẰM PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CẢNG VEN BIỂN Ở ẤN ĐỘ, VÀ ĐẶC BIỆT NHẤT PHẢI NHẮC ĐẾN LÀ CẢNG BIỂN CHIẾN LƯỢC CHABAHAR Ở IRAN .
Em nói qua 1 chút về cảng biển này : Đây là cảng biển chiến lược mà Ấn Độ đã phải cương quyết làm bất chấp nước này phải chịu lệnh cấm vận của Mỹ và Châu Âu . Nó là một mắt xích chiến lược trên tuyến vận tải nối Ấn Độ Dương, vịnh Ba Tư với biển Caspi và đi tiếp đến Bắc Âu, qua thành phố Saint Petersburg ở Nga.
Đây là lần đầu tiên Ấn Độ tiếp quản quyền quản lý một cảng ở nước ngoài. Điều này cũng sẽ có tác động thúc đẩy thương mại giữa Ấn Độ, Iran và Afghanistan khi các nỗ lực tiếp tục khai thác trực tiếp tiềm năng ở Trung Á bỏ qua khống chế trên bộ của đối thủ địa lý Pakistan. Cảng Chabahar cũng là một phần của Hành lang Vận tải Bắc - Nam Quốc tế đang được đề xuất nối Ấn Độ với Trung Á, vùng Vịnh và châu Âu qua thành phố Saint Petersburg ở Nga. Khi hình thành tuyến này, theo ước tính, các chuyến hàng đi qua Hành lang Vận tải Bắc - Nam Quốc tế sẽ mất ít hơn khoảng 15 ngày so với tuyến kênh đào Suez. Dự án vận tải chiến lược đa phương thức dài 7.200 km nhằm vận chuyển hàng hóa giữa Ấn Độ, Iran, Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Nga, Trung Á và châu Âu là đặc biệt quan trọng với Ấn Độ để cạnh tranh và đẩy Trung Quốc ra khỏi khu vực vùng vịnh và eo biển đỏ , chính vì điều này nên Ấn Độ bất chấp tất cả các cảnh báo của Mỹ để hoàn thành nó cùng Iran , Ấn phải làm điều này để phá vỡ chuỗi ngọc trai của Trung Quốc ở vùng ảnh hướng Ấn Độ Dương và sừng Châu Phi .





Điều quan trọng là Ấn độ sẽ dựa vào 2 hòn đảo này để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế , 2 hòn đảo này trên thực tế là bên bảo đảm an toàn và an ninh cho vùng đặc quyền kinh tế của Ấn Độ, nằm gần vùng đặc quyền kinh tế của một số quốc gia khác bao gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Myanmar, Bangladesh, Maldives và Sri Lanka.
Andaman-Nikoba bóp nghẹt cổ họng đường thủy Malacca, không chỉ đáp ứng nhu cầu thành lập căn cứ tiền phương để triển khai quân tới Tây Thái Bình Dương của Ấn Độ mà còn tạo cho nước này một đòn bẩy có giá trị cao để mặc cả với phương Tây về các điều khoản. Nếu các tàu mặt nước cỡ lớn của Hải quân Ấn Độ đóng quân thường xuyên tại khu vực này, khoảng cách tới Tây Thái Bình Dương sẽ được rút ngắn đáng kể, giúp Hải quân Ấn Độ có thể tham gia sâu vào các vấn đề châu Á trong tương lai, thậm chí hợp tác với Hải quân Mỹ trong các vấn đề châu Á trong bối cảnh Mỹ tái bố trí lực lượng quân sự ở Ấn Độ - Thái Bình Dương trong chiến lược trở lại sự can dự của Mỹ trong thế Kỷ 21 .
Ngoài ra, quần đảo Andaman-Nikoba cũng trở thành con đường ngắn nhất để các tàu hải quân Trung Quốc đi tới Ấn Độ Dương. Bằng cách tăng cường triển khai quân đội ở khu vực này, khả năng giám sát và phòng thủ của Hải quân Ấn Độ sẽ được mở rộng từ các khu vực ven biển về phía nam gần 1000 nghìn km. Hải quân Ấn Độ hiện thường xuyên điều động máy bay trinh sát hàng hải P-8I Poseidon mới mua của Mỹ tới căn cứ của quần đảo này để theo dõi các tàu ngầm Trung Quốc ra vào Ấn Độ Dương.
Tầm nhìn quân sự :
Với vị trí địa lý quan trọng như vậy, chuỗi đảo này được xem như lớp chắn vật lý đảm bảo cho các tuyến vận tải biển (SLCS) hoạt động thông suốt ở chuỗi hiểm lộ trên biển như: kênh Praparis ở phía Bắc, kênh 10 độ giữa quần đảo Andaman và nhóm đảo Nicobar và kênh 6 độ ở phía Nam. Trong khi hai tuyến đường biển đầu tiên không được sử dụng thường xuyên cho các tàu thương mại, thì ngược lại tất cả các tàu vượt qua Eo biển Malacca đều phải đi qua Kênh 6 độ. Vị trí của các quần đảo này cũng là căn cứ lý tưởng để theo dõi các hoạt động hải quân ở eo biển Malacca.
Do các đảo này nằm cách đất liền 1.500km, chúng giúp kết nối Ấn Độ với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Trong “Báo cáo chiến lược an ninh hàng hải” của Ấn Độ được công bố tháng 1/2016 đã nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo này và khẳng định ý nghĩa chiến lược của nó như một cơ sở cho việc triển khai quyền lực của Ấn Độ đối với Tây Thái Bình Dương và hơn thế nữa. Ấn Độ dự kiến sẽ khai thác những thế mạnh về quân sự của những quần đảo này bằng các hoạt động sau:
1: Thiết lập đội tàu chiến hải quân với các tàu đổ bộ Landing Platform Docks (LPD)
2: Triển khai một biện pháp phòng ngừa thông qua thiết lập một hệ thống tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo.
Ấn Độ sẽ triển khai nhiều hơn nữa các cảm biến điện tử, hệ thống nhận dạng và theo dõi tầm xa, tăng cường khả năng của lực lượng hải quân và cải tiến kỹ thuật, để cho phép tự động xác định, theo dõi các các tàu hoạt động ở khu vực này cũng như hình thành mạng lưới trung tâm hoạt động trung tâm để kiểm soát các hoạt động ở các hòn đảo trong quần đảo này.
Hiện nay, các nỗ lực của Ấn Độ nhằm đối phó với sự tăng cường hiện diện và gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được thể hiện qua sự hiện diện của Hạm đội phương Đông (Eastern Fleet) ở cảng phía Đông của Visakhapatnam (Ấn Độ). Mục tiêu của sự sắp xếp này, một mặt để thay đổi bộ mặt hạ tầng cơ sở hạ tầng quân sự vốn đang trên đà phát triển trên các hòn đảo. Nhưng quan trọng hơn, mục tiêu cuối cùng là hiện diện một đội tàu quân sự thường trú ở đây sẽ giúp Ấn Độ có khả năng theo dõi, kiểm soát hoặc từ chối các hoạt động hàng hải của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, làm cho hòn đảo trở thành một phần quan trọng trong Chiến lược phong tỏa biển của Ấn Độ.
Chiến lược biển của Ấn Độ nhấn mạnh hai nội dung: phong tỏa biển (sea denial strategy) và kiểm soát biển (sea control). Lý thuyết tác chiến hải quân cho rằng lực lượng hải quân có thể chiếm ưu thế so với đối thủ bằng cách kiểm soát vùng biển gần bờ hoặc từ chối việc sự dụng các vùng biển này với đối phương. Kiểm soát biển là chiến lược được lựa chọn khi chủ thể có lực lượng chiếm ưu thế nhưng đòi hỏi một số lượng lớn từ sự hỗ trợ về khí tài hiện đại để đưa ra các cách giải guyết quân sự ở khu vực duyên hải trong dài hạn. Ngược lại, một lực lượng yếu hơn tập trung tất cả khả năng để ngăn chặn đối phương sử dụng các vùng biển lân cận. Chiến lược phong tỏa biển cũng tương tự như chiến lược chống tiếp cận (anti-access) và chiến lược phong tỏa khu vực (area denial strategy). Quần đảo Andaman và Nicobar có tiềm năng tuyệt vời để triển khai chiến lược này. ( chiến lược chống tiếp cận và từ chối khu vực A2/AD em đã viết trong bài viết “ sức mạnh hải quân Trung Quốc “ ở đây https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02tFjQYfpy3qSQ75pbbN7AriHRne3jRn138Dn1WNqXAaqRQeksS5ZpGN4ve2qGLuKMl&id=61557863256059 )
Có khả năng Ấn Độ sẽ xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết trên các hòn đảo, tạo ra các căn cứ quân sự có khả năng chống tiếp cận (anti-access) và vùng kiểm soát hàng hải đặc biệt phong tỏa (area-denial maritime exclusion zone) trong trường hợp có xung đột. Theo đó, trong ngắn hạn, các quần đảo này có khả năng là địa bàn diễn ra các chuyến thăm thường xuyên của các tàu sân bay và trong dài hạn là sự hiện diện của tàu ngầm hạt nhân của Hải quân Ấn Độ. Nó cũng có thể là căn cứ cho các bộ phận của Lực lượng đặc nhiệm (Army’s Special Forces), Trinh sát hải quân (Naval Commandos), một phi đội chiến đấu cơ SU-30 MKI và một phi đội máy bay tiêm kích Jaguar.
Ấn Độ cũng có thể lựa chọn biện pháp để xây dựng cơ sở hạ tầng trên các quần đảo này để tạo nên khu vực huấn luyện quân sự, xây dựng các sân bay có lộ trình đến Mỹ, Úc, New Zealand, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.
Một điều đáng chú ý là tài liệu về Chiến lược an ninh của Ấn Độ trước đây đã đề cập, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát biển và phong tỏa biển là những yêu cầu quan trọng đối với hải quân Ấn Độ. Trong đó, chiến lược phong tỏa biển của Ấn Độ được định hướng để hướng tới đối trọng Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đang nỗ lực gây ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương. Quần đảo Andaman và Nicobar đóng vai trò quan trọng đối với chiến lược này bằng cách đóng góp tích cực cho khả năng vượt trội của hải quân Ấn Độ ở vùng Đông Ấn Độ Dương cũng như ảnh hưởng của nó vượt qua Eo biển Malacca thông qua hợp tác với nhiều quốc gia khác như Indonesia, Australia, Việt Nam và Mỹ.
Tóm lại, có thể nói rằng các quần đảo Andaman và Nicobar cung cấp địa bàn, tạo lực đẩy cho hải quân Ấn Độ tiến vào Tây Thái Bình Dương và xa hơn nữa.
Vì quần đảo Andaman và Nicobar có cấu trúc chia ba, địa bàn do Ủy ban phối hợp Quốc phòng Ấn Độ (Integrated Defence Staff) quản lý. Sức mạnh quân sự hiện nay của Ấn Độ ở đại bàn này được phân bố đều trong 3 quân chủng (hải quân, lục quân, không quân), nhưng trên thực tế thì Hải quân Ấn Độ chiếm phần lớn và có sức mạnh lớn hơn hơn so với 2 quân chủng kia. Hơn nữa, sự thống nhất về phạm vi của một Bộ ba Quân chủng của Ấn Độ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc phòng, cũng như triển khai các cuộc tập trận chung của Ấn với các cường quốc khác ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương như Nhật Bản, Australia và Mỹ.
Cam kết quân sự và sức mạnh quân sự của Ấn Độ chủ yếu hướng đến một cường quốc quân sự lục địa và tập trung vào việc đối phó với năn lực sở hữu vũ khí hạt nhân là Pakistan và Trung Quốc, dọc biên giới phía Bắc. Hiện nay, cơ sở hạ tầng quân sự của Ấn Độ trên các quần đảo này còn hạn chế, bao gồm hai đường băng hoàn thiện tại đảo Car Nicobar, một căn cứ không quân tại Port Blair, một căn cứ hải quân và hai đường băng ngắn tại Diglipur ở Bắc Andamans và Vịnh Campbell trên đảo Great Nicobar. Các bến cảng Blair và Mayabandar ở chuỗi Andaman và Nancowry ở Nivobars cung cấp các bến cảng tự nhiên cho Ấn Độ. Ngoài ra còn có cảng sâu Nancowry Harbour nằm ở phía Nam chuỗi đảo với các hoàn đảo là Karmota và Nancowry ở hai bên.
Ngoài việc chuyển đổi quần đảo Andaman và Nicobar thành một căn cứ quân sự, Ấn Độ còn có kế hoạch tiến hành các dự án hợp tác chung với Nhật Bản và Mỹ để xây dựng Hệ thống cảm biến sóng âm dưới nước (SOSUS) gần các hòn đảo trên các quần đảo này. Đây là một biện pháp quan trọng trong việc kiểm soát các hoạt động ở Ấn Độ Dương đối với Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc cũng như giám sát các hoạt động của hạm đội này. Australia cũng tham gia vào việc lắp đặt hệ thống cảm biển âm thanh này vì điều này sẽ giúp Úc dự đoán ảnh hưởng của nó của Ấn Độ Dương và theo cách đó giúp quốc gia này theo dõi các hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng lớn.
Sự hợp tác giữa Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản ở các quần đảo Andaman và Nicobar hỗ trợ quá trình lắp đặt các hệ thống cảm biến âm thanh và dự kiến các quốc gia này sẽ hợp tác trong việc thiết lập một hệ thống cáp quang ngầm dưới đáy biển từ Chennai đến cảng Blair. Sau khi hoàn thành, mạng kết nối này có thể được kết hợp với mạng lưới Hệ thống nghe lén sóng âm dưới nước Fish Hook của Mỹ và Nhật Bản, vốn đã được tạo ra để giám sát hoạt động của tàu ngầm, Hải quân Trung Quốc ở khu vực Biển Đông và vành đai Ấn Độ Dương.
Việc Trung Quốc có kế hoạch triển khai chiến lược Chống xâm nhập/Chống tiếp cận (A2/AD) ở khu vực Đông Nam Á có thể đã dẫn tới những động thái phản ứng của Ấn Độ tại Vịnh Bengal.
Có nhiều quan điểm nghi ngờ rằng, Bắc Kinh đang trong quá trình tạo ra một Vạn lý Trường Thành (Great Wall) dưới đáy biển ở Biển Đông bằng cách thiết lập mạng lưới cảm biến để nghe lén các hoạt động của tàu ngầm Mỹ. Mạng lưới này của Trung Quốc được cho là sao chép, mô hình hóa hệ thống SOSUS của Mỹ, vốn từng được phát triển với mục đích đầu tiên để theo dõi tàu ngầm Liên Xô cũ vào giữa những năm 1950 trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. việc hải quân Trung Quốc đang triển khai mạng lưới hệ thống cảm biến dưới đáy biển đã dẫn tới việc Ấn Độ cũng theo đuổi một dự án tương tự tại vùng biển Nam Á. Những sự phát triển này có thể thúc đẩy các nhà hoạch định chính sách của Úc tăng cường hợp tác với Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ .
Trong 5 năm tới, hy vọng rằng, quần đảo Andaman và Nicobar sẽ được bổ sung vào đội quân thứ ba của Hải quân Ấn Độ - Bộ tư lệnh Hải quân Viễn Đông dưới sự chỉ huy của Tri-Command Service để đảm bảo sự linh hoạt của nó. Những sự phát triển này sẽ gia tăng vai trò của Ấn Độ với tư cách là một nhà cung cấp an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rộng lớn.
Rõ ràng rằng , chiến lược của những nước lớn đang tập trung quyền lực phát triển ra hướng biển hơn là trong lục địa . Đại Dương thế giới đang có những cuộc cạnh tranh chiến lược rất đáng theo dõi .
Trong sự định hình cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, tầm quan trọng của Ấn Độ trước hết xuất phát từ vị thế quốc gia của nước này và thực tế là tiềm lực kinh tế và quân sự của Ấn Độ đã gia tăng đáng kể trong những năm qua. Về tổng thể, có thể thấy, vai trò của Ấn Độ ngày càng gia tăng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong vai trò là cường quốc kinh tế và quân sự khu vực, Ấn Độ tuân thủ pháp luật, tôn trọng luật pháp quốc tế, hướng tới một trật tự khu vực dựa trên các nguyên tắc thay vì thừa nhận sự leo thang của quyền lực và cạnh tranh quyền lực. Là quốc gia dân chủ, Ấn Độ ủng hộ sự tham gia của các chủ thể trong khu vực theo hướng tôn trọng và phát triển bao trùm, tránh cấu trúc bá quyền khu vực. Là cường quốc khu vực ổn định, trỗi dậy hòa bình, Ấn Độ là nhân tố tự nhiên cân bằng quyền lực trong khu vực. Ấn Độ đang cho thấy ảnh hưởng của mình khi nỗ lực thiết lập các luật chơi mới về các vấn đề cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Trong tương lai, mọi chính sách, động thái của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ đặt nền tảng cho vai trò của nước này trong một cấu trúc an ninh toàn cầu mới

Israel không được phép nương tay.

  Tôi không có thói quen quy chụp tôn giáo này tàn ác, dân tộc kia ngu muội. Ta được học tư duy biện chứng, được dạy biến đổi về lượng-chất....